Thứ Hai, 28 tháng 5, 2018

Moonwalking with Einstein ( Chương I )


Tên sách: Phiêu bước cùng Einstein
Nguyên tác: Moonwalking with Einstein
Tác giả: Joshua Foer
Thể loại: Khoa học Trí nhớ - Thuật trí nhớ

Giới thiệu


Bước vào bất kỳ nhà sách nào hiện nay, bạn đều thể thấy hàng trăm cuốn sách dạng “làm thế nào” để hoàn thiện kỹ năng nào đó. Tại sao trong hàng trăm ngàn người mua sách, không mấy ai thực sự đạt được mục tiêu ban đầu? Tại sao giữa chúng ta tồn tại những “kỳ nhân” làm được những chuyện phi thường như thuộc lòng hàng chục ngàn con số pi? Một trong những nhân vật phi thường ấy khẳng định “bất kỳ người bình thường nào rèn luyện đúng cách cũng làm được như vậy”.

Anh nhà báo Josh Foer với mức IQ bình thường, từ những thắc mắc tương tự, đã dành hẳn một năm rèn luyện để tham gia cuộc thi trí nhớ toàn nước Mỹ, và đoạt luôn giải nhất. Cuốn sách ghi lại trải nghiệm đó của anh, các quyết rèn luyện trí nhớ các thông tin khoa học cũng như các cuộc tiếp xúc với nhân trí nhớ phi thường lẫn bất thường.

Chẳng còn ai sống sót
Thảm họa xảy ra tại một phòng tiệc vào thế kỷ thứ năm trước Công nguyên, gia quyến đến hiện trường đào bới đống đổ nát tìm dấu vết những người thân yêu - chiếc nhẫn, đôi dép, hay bất cứ thứ giúp họ nhận dạng đúng người thân đưa về chôn cất.

Chỉ vài phút trước đấy, nhà thơ Hy Lạp Simonides of Ceos còn đứng đọc bài thơ ca ngợi Scopas, một nhà quý tộc xứ Thessaly. Khi Simonides vừa an tọa, một sứ giả vỗ vai ông. Hai thanh niên đang ngồi trên lưng ngựa ngoài kia nóng lòng báo cho ông điều gì đó. Ông lại đứng dậy bước ra cửa. Ngay lúc ông bước qua ngưỡng cửa, mái phòng tiệc đổ sập đánh ầm xuống thành một tấn ghê rợn những đá vỡ bụi đất.

Lúc này ông đứng trước quang cảnh đổ nát với những cái xác bị chôn vùi. Bầu không khí trước đó vẫn đầy tiếng cười đùa ồn ã, giờ bụi mờ tĩnh lặng. Các nhóm cứu hộ điên cuồng đào tìm nơi tòa nhà sụp đổ. Những cái xác lôi ra khỏi đống đổ nát đã biến dạng đến mức chẳng thể nhận ra. Không người nào dám chắc những ai đã ở trong tòa nhà. Thảm kịch này chồng chất lên thảm kịch khác.

Rồi một chuyện phi thường xảy ra đã vĩnh viễn thay đổi cách người ta suy nghĩ về trí nhớ. Simonides nén chặt những cảm xúc trước cảnh hỗn loạn chung quanh đảo ngược thời gian trong đầu ông. Những đống đá vụn hóa trở lại thành cột đá, những mẩu họa tiết vương vãi kết liền lại với nhau phía trên đầu. Những mảnh gốm tung tóe khắp nơi tái tạo thành những chiếc bát. Những mảnh gỗ vụn trên đống tan hoang lại ráp thành bàn. Simonides thoáng nhìn thấy hình ảnh từng thực khách dự tiệc ngồi trên ghế, họ không hề hay biết mối tai ương sắp ập tới. Ông nhìn thấy Scopas đang cười đùa đầu bàn, một bạn thơ ngồi đối diện ông đang dùng mẩu bánh vét nốt phần thức ăn còn lại, một nhà quý tộc đang mỉm cười khoan khoái. Ông quay về phía cửa sổ trông thấy những sứ giả đang tiến lại gần, như thể đang mang theo tin tức quan trọng.
Simonides mở mắt ra. Ông nắm tay từng người thân đang trong cơn kích động, thận trọng bước về đống đổ nát, ông hướng dẫn họ, từng người một, đến những chỗ trên đống gạch đá vụn nơi người thân họ đã ngồi.

Theo truyền thuyết, từ khoảnh khắc đó thuật ghi nhớ ra đời.

Chương một


Thật khó tìm được người thông minh nhất
Trong đầu tôi hiện lên hình ảnh Dom DeLuise, một nhân vật béo tròn nổi tiếng (năm nhép) với những hành động bất nhã sau: Ông ta rỏ một giọt nước bọt nhầy nhụa (chín nhép) lên bờm tóc trắng dày của Albert Einstein (ba rô) và tung một cú đá kinh hồn (năm pích) vào hạ bộ Giáo Hoàng Benedict XVI (sáu rô). Michael Jackson (K cơ) đã ứng xử kỳ quặc thậm chí nếu so với tiêu chuẩn hành xử ngày thường của chính ông ta. Ông ta đã són (hai nhép) lên miếng bánh kẹp cá hồi (K nhép) và ợ hơi (đầm nhép) vào một quả bóng (sáu pích). Rhea Perlman, một nhân viên quầy bar (đầm pích) quán Cbeers, bị bắt gặp gian díu với ngôi sao bóng rổ người Sudan cao hai mét ba tên Manute Bol (bảy nhép) trong tư thế “kẻ ngược người xuôi” rất lộ liễu (và trường hợp này, xét về mặt hình thể bất khả).

Hoạt cảnh rẻ tiền này, tôi chẳng lấy làm tự hào tả lại trên trang sách, hẳn đủ để giải thích cho tình huống bất ngờ tôi đang mắc vào lúc đó. Ngồi bên trái tôi Ram Kolli, một cố vấn kinh doanh hai lăm tuổi lún phún râu người Richmond, Virginia, anh cũng đang thi đấu bảo vệ chức địch trí nhớ Hoa Kỳ. Bên phải tôi tiếng rầm phát ra từ máy quay của một kênh truyền hình cáp phủ sóng quốc gia (dù ít người xem). Phía sau tôi, nơi tôi không thể nhìn thấy và họ cũng chẳng làm phiền tôi, là gần một trăm khán giả cùng hai bình luận viên truyền hình đang bình luận trực tiếp. Một người cựu bình luận viên môn đấm bốc tên Kenny Rice, với mái tóc sấy, giọng nói thô ráp kiểu đọc truyện đêm khuya không giấu được chút bối rối trước đám người kỳ dị chúng tôi. Người kia Scott Hagwood, ông vua trong môn tranh tài trí nhớ của Hoa Kỳ, một kỹ sư ngành hóa bốn mươi ba tuổi, để râu quai nón, bốn lần vô địch quốc gia, người vùng Faytteville, Bắc Carolina. Ngay góc phòng đối tượng của lòng tôi: chiếc cúp hào nhoáng hai tầng, gồm một bàn tay bạc với móng tay vàng bóng bẩy xòe cây thùng phá sảnh[1], phần bên dưới đậm màu sắc ái quốc hơn với tượng ba con ó trọc đầu. cao hơn đứa cháu gái hai tuổi của tôi (và nhẹ hơn mấy con thú nhồi bông của nó).
Khán giả không được bật flash khi chụp ảnh phải giữ yên lặng tuyệt đối. Nhưng quy định thế không phải Ram tôi thể nghe tiếng họ. Hai chúng tôi đều mang nút lỗ tai. Tôi còn chụp thêm một đôi bao bịt tai đặc dụng trông như của lao công trên tàu sân bay (vì trong cuộc thi trí nhớ căng thẳng, cách âm tốt đến mấy cũng chưa đủ). Mắt tôi nhắm lại. Hai cỗ bài nằm sấp đã xáo đặt trên bàn giữa hai tay tôi. Lát nữa thôi, trọng tài chính sẽ bấm đồng hồ đếm giờ tôi sẽ năm phút để ghi nhớ trật tự của hai cỗ bài.

Lý do khó ngờ dẫn dắt tôi tới cái cảnh ngồi bất động, vã mồ hôi ròng ròng như thế này trong vòng chung kết cuộc thi địch Trí nhớ Hoa Kỳ, xuất hiện một năm trước trên một xa lộ tuyết phủ ở trung tâm Pennsylvania. Để thực hiện cuộc phỏng vấn cho tạp chí Discover; tôi lái xe từ Washington D.C đến thung lũng Lehigh Pennsylvania gặp một nhà vật lý lý thuyết tại Đại học Kutztown, người đã phát minh ra một thiết bị tạo môi trường chân không được cho sẽ làm bung loại ngô rang lớn nhất thế giới. Tuyến đường dẫn tôi đi qua vùng York, Pennsylvania, quê hương của Bảo tàng và Phòng trưng bày môn cử tạ. Nghe vẻ địa điểm “phải đến trước khi chết”. tôi hãy còn một tiếng rảnh rỗi.
Hóa ra, Phòng trưng bày chả hơn mấy bộ sưu tập nghèo nàn những tấm ảnh mèm và các vật lưu niệm được bày trên tầng trệt các văn phòng công ty của nhà sản xuất thanh tạ lớn nhất nước, về mặt bảo tàng học nói, đó chỉ một mớ rác rưởi. Nhưng đó lại nơi


lần đầu tiên tôi thấy tấm hình đen trắng chụp Joe Greenstein-Atom Cường tráng, một lực sĩ người Mỹ gốc Do Thái cao chừng một mét sáu, người vâm váp, ông đã biệt danh như vậy vào những năm 1920 khi thực hiện những màn trình diễn đầy phấn khích như cắn gãy đôi đồng 25 cent, và nằm trên giường đinh trong khi cả ban nhạc miền Nam gồm mười bốn người ngồi chơi trên ngực ông. lần ông thay cả bốn cái lốp ô chẳng cần dùng đến dụng cụ nào. Một dòng chữ bên tấm ảnh vinh danh Greenstein là “người khỏe nhất thế giới.”

Nhìn vào tấm ảnh đó, tôi nghĩ hẳn là thú vị nếu người khỏe nhất thế giới gặp người thông minh nhất thế giới. Atom Cường tráng Einstein vòng tay ôm lấy nhau: cuộc gặp gỡ đầy chất sử thi giữa bắp trí tuệ. Ít nhất đó sẽ tấm ảnh khá hay để treo trên bàn làm việc của tôi. Tôi băn khoăn liệu đã bao giờ tấm ảnh kiểu thế được chụp hay chưa. Khi về tới nhà, tôi thử tìm kiếm trên Google. Dễ tìm được ngay người khỏe nhất thế giới: Mariusz Pudzianowski, sống Biala Rawska, Ba Lan, thành tích nâng tạ nặng gần 420kg (gấp 30 lần đứa cháu gái tôi).

Ngược lại, tìm người thông minh nhất thế giới không dễ như vậy. Tôi “IQ cao nhất”, “vô địch thông minh”, “thông minh nhất thế giới”. Tôi biết được ở thành phố New York có người IQ 228, rồi một kỳ thủ Hungary từng chơi năm mươi hai ván cờ tưởng[2] một lúc. Một phụ nữ người Ấn Độ có thể tính nhẩm căn bậc hai mươi ba của một số hai trăm chữ số trong vòng năm mươi giây, người thể xoay xong khối Rubik bốn mặt bất kể ban đầu nó được vặn vẹo kiểu gì. Và tất nhiên có hàng tá ứng cử viên khác đầu óc thuộc hàng Stephen Hawking. Việc đo đếm bộ não hiển nhiên phức tạp hơn nhiều so với bắp.

Tuy vậy, trong lúc Google, tôi phát hiện ra một ứng cử viên đáng chú ý, người này nếu không phải thông minh nhất thế giới thì cũng là một dạng thiên tài quái dị. Anh tên Ben Pridmore, có thể nhớ chính xác trật tự của 1.528 chữ số ngẫu nhiên trong vòng một tiếng đồng hồ - để gây ấn tượng với những người thích “văn vẻ” hơn - anh thuộc được bất cứ bài thơ nào người ta đưa cho. Anh đang thống trị giải địch thế giới về trí nhớ.

Thế trong mấy ngày kế tiếp, đầu óc tôi cứ quanh quẩn với trường hợp Ben Pridmore. Trí nhớ của tôi giỏi lắm cũng ở mức trung bình. Tôi thường xuyên quên chỗ để chìa khóa xe hơi (và nhân thể nói luôn, cả chỗ đậu xe nữa); thức ăn đang bỏ lò vi sóng; rằng phải viết its không phi its; sinh nht bn gái, ngày k niệm yêu nhau, L Valentine; việc dn dẹp hầm rượu nhà bố mẹ (ối trời); số điện thoại bạn bè; lý do mở tủ lạnh; sạc điện thoại; tên Chánh văn phòng của Tổng thống Bush; thứ tự các trạm dừng chân ở New Jersey Turnpike; năm gần nhất đội Redskins giành Cúp địch; đậy nắp toilet.
Ngược lại, Ben Pridmore thể ghi nhớ thứ tự các quân bài của một cỗ bài đã xáo trong ba mươi hai giây. Nếu năm phút, anh ta thể ghi nhớ vĩnh viễn 96 sự kiện lịch sử. Người đàn ông này thuộc năm mươi ngàn chữ số của số pi. Thế chẳng đáng ghen tị sao? lần tôi đọc được rằng một người bình thường hoang phí bốn mươi ngày mỗi năm để làm bù những việc nhỡ quên. Nếu không tính tới chuyện anh ta đang tạm thời thất nghiệp, câu hỏi đặt ra hiệu suất của Ben Pridmore thể còn lên tới đâu nữa?
Có vẻ những thứ phải nhớ càng ngày càng nhiều thêm: nhiều cái tên hơn; nhiều mật khẩu hơn, nhiều cuộc hẹn hơn. Tôi hình dung với một trí nhớ như của Ben Pridmore thì đời đã khá hơn nhiều. Nền văn hóa hiện nay liên tục rót ngập đầu chúng ta những thông tin mới, vậy bộ não chỉ nắm bắt được rất ít. Hầu hết thông tin vào tai này ra tai kia. Nếu cốt lõi của việc đọc để giữ lại tri thức, thì lẽ đó hoạt động ít hiệu quả nhất tôi tham gia. Tôi có thể dành hàng dăm bảy tiếng đồng hồ đọc một cuốn sách, nhưng rồi chỉ có ý niệm


hồ về nội dung của nó. Những sự kiện giai thoại này kia, thậm chí những chuyện thú vị đáng nhớ, thường chỉ gây ấn tượng thoảng qua trong đầu tôi rồi mất tăm mất tích đi đâu không biết. Trên giá nhà tôi những cuốn sách tôi còn không nhớ mình đã đọc hay chưa.

Nếu giữ được hết những kiến thức đã mất đi đó thì sẽ thế nào nhỉ? Tôi không khỏi nghĩ rằng điều đó sẽ khiến tôi nói năng thuyết phục hơn, tự tin hơn, xét theo một nghĩa cơ bản nào đó, thông minh hơn. Chắc chắn tôi sẽ một phóng viên giỏi hơn, một người bạn tốt hơn, bạn trai hoàn hảo hơn. Chẳng những vậy, tôi tưởng tượng rằng sỏ hữu một trí nhớ như Ben Pridmore sẽ biến tôi thành một người chu đáo hơn, và thậm chí thông thái hơn. Nếu coi ức tập hợp các trải nghiệm, thì trí nhớ tốt hơn giúp ta không chỉ biết nhiều hơn về thế giới, còn về bản thân. Chắc hẳn quên được một số chuyện làm ta khó chịu điều lành mạnh cần thiết. Nếu không quên nhiều điều ngớ ngẩn mình đã làm, hẳn tôi bị thần kinh mất. Nhưng trí nhớ kém cỏi của tôi liệu đã bỏ qua bao nhiêu ý tưởng đáng giá không đào sâu thấu đáo làm bao nhiêu mối liên hệ không thành?

Tôi cứ nghĩ mãi đến một câu Ben Pridmore nói khi trả lời phỏng vấn, khiến tôi suy nghĩ xem sự khác biệt giữa trí nhớ của anh ta của tôi thực ra gì. “Đó hoàn toàn kỹ thuật và sự thấu hiểu cách bộ nhớ hoạt động,” anh nói với phóng viên. “Bất cứ ai cũng thể làm được, thực vậy.”

Vài tuần sau chuyến đi đến Phòng trưng bày cử tạ, tôi đứng cuối khán phòng trên tầng mười chín trụ sở Con Edison gần quảng trường Union Manhattan, làm khán giả cuộc thi Vô địch trí nhớ Hoa Kỳ năm 2003. Bị niềm phấn khích về Ben Pridmore thúc đẩy, tôi đến đó để viết cho tạp chí Slate một bài ngắn điều tôi hình dung về giải địch những nhà thông thái.

Vậy mà, cảnh tượng tôi bắt gặp lại chẳng khác nào cuộc đụng độ của những kẻ phi thường: một lũ đàn ông (và vài quý cô) ở nhiều độ tuổi vẻ ngoài khác nhau, đang mải mê với những trang giấy đầy rẫy các chữ số ngẫu nhiên cả dọc dài các con chữ. Họ tự nhận là “những vận động viên trí óc,” (mental athletes) viết tắt MA.

năm vòng thi. Vòng đầu tiên, các thí sinh phải học thuộc năm mươi câu thơ chưa xuất bản, tựa đề “Tấm thảm dệt hình tôi” (The Tapestry of Me.) Rồi người ta đưa cho họ chín mươi chín bức ảnh chụp chân dung kèm theo họ tên, họ mười lăm phút để ghi nhớ càng nhiều càng tốt. Rồi mười lăm phút nữa để ghi nhớ một danh sách ba trăm từ ngẫu nhiên, năm phút để ghi nhớ một trang đến một ngàn con chữ số ngẫu nhiên (hai mươi lăm dòng, mỗi dòng 40 chữ số), năm phút nữa để học thuộc thứ tự một cỗ bài đã xáo. Trong số các đấu thủ, hai người nằm trong nhóm ba mươi sáu đại kiện tướng về trí nhớ, để được danh hiệu này, khi trước họ phải thuộc được chuỗi một ngàn chữ số ngẫu nhiên trong vòng chưa đầy một tiếng, thứ tự chính xác của mười cỗ bài đã xáo cũng trong chừng ấy thời gian, lại thêm thứ tự một cỗ bài đã xáo trong chưa đầy hai phút.
bề ngoài những thành tích này trông chỉ như trò lạ mua vui - về bản bổ, có lẽ còn hơi vớ vẩn nữa - nhưng khi trò chuyện với các đấu thủ, tôi nhận ra một điều thật sự nghiêm túc khiến tôi phải nhìn nhận lại những giới hạn của trí óc mình bản chất vốn học thức của tôi.

Tôi hỏi Ed Cooke từ khi nào anh biết mình là thiên tài. Anh là một đại kiện tướng trẻ tuổi người Anh, tham gia cuộc thi Hoa Kỳ như kiểu tập huấn mùa xuân để chuẩn bị cho Cuộc thi địch thế giới diễn ra vào mùa (vì anh không phải người Mỹ, nên điểm số của anh


không được tính vào kỳ thi ở Mỹ).

“Ồ, tôi chẳng phải thiên tài đâu,” anh cười nhẹ nhàng. “Bộ nhớ như máy ảnh à?” tôi hỏi.
Anh lại cười thành tiếng. “Khái niệm bộ nhớ chụp ảnh chỉ là thứ hoang đường vớ vẩn thôi”
anh nói. “Không thứ đó trên đời đâu. Thật ra, trí nhớ của tôi cũng bình thường. Tất cả chúng ta đều trí nhớ trung bình.”

Điều đó quả khó tin tôi vừa xem anh ta lặp lại 252 chữ số ngẫu nhiên chẳng phải cố gắng gì, như thể chúng số điện thoại của anh vậy.

“Anh nên hiểu rằng thậm chí những bộ nhớ trung bình cũng có sức mạnh đáng kể nếu được sử dụng hợp lý,” anh nói. Ed có khuôn mặt thô và mái tóc nâu loăn xoăn để dài tận vai, có thể xem anh là trong số các thí sinh ít quan tâm trau chuốt vẻ bề ngoài nhất. Anh mặc một bộ vét, cà vạt thắt lỏng đi kèm đôi dép xỏ ngón in hình cờ nước Anh chẳng ăn nhập vào đâu. Anh mới hai bốn tuổi nhưng anh cái thân mình như một người gấp ba lần độ tuổi đó. Anh đi tập tễnh, lúc nào cũng kè kè cây gậy mà anh gọi là “chân chống chiến thắng,” - do gần đây bệnh viêm khớp dạng thấp thiếu niên tái phát. Cũng như Ben Pridmore, anh các vận động viên trí óc khác cứ khăng khăng rằng bất cứ ai cũng thể làm điều họ làm. Đó chỉ là vấn đề học cách “suy nghĩ theo những cách dễ nhớ hơn” sử dụng kỹ thuật ghi nhớ “cực kỳ đơn giản” đã có cách đây 2.500 năm, gọi là “cung trí nhớ” được cho do Simonides of Ceos phát kiến trước cảnh đổ nát của vụ sập phòng yến tiệc.
Kỹ thuật cung trí nhớ - còn gọi là phương pháp hành trình hay phương pháp quỹ tích, và phổ biến hơn cả là ars memorativa, hay “thuật ghi nhớ” - được những người La Mã như Cicero và Quintilian tinh lọc và biên soạn thành bộ quy tắc và tài liệu chỉ dẫn chi tiết; thuật này nở rộ vào thời Trung cổ để giúp các tín đồ ghi nhớ mọi thứ, từ những bài giảng đạo lời cầu nguyện, cho tới những hình phạt đang chờ đợi bọn phù thủy dưới địa ngục. Đây cũng quyết các Nguyên lão nghị viên La vận dụng để ghi nhớ các bài phát biểu, giúp các học giả Trung cổ thuộc lòng sách vở và Themistocles, một thủ lĩnh người Athen cũng được cho là đã vận dụng kỹ thuật này để ghi nhớ tên của hai mươi ngàn dân Athen.

Ed giải thích cho tôi rằng các đấu thủ tự nhận mình “những người tham gia vào chương trình nghiên cứu nghiệp dư” mục tiêu cứu vãn một truyền thống rèn luyện trí nhớ đã biến mất từ nhiều thế kỷ trước. Ed nhấn mạnh, ngày xưa ghi nhớ tất cả. Một trí nhớ được rèn giũa không chỉ một công cụ tiện lợi còn nền tảng của bất cứ trí óc trần tục nào. Hơn nữa, việc rèn luyện trí nhớ được xem một hình thức xây dựng tính cách, một phương pháp để phát triển đức tính cốt yếu cẩn thận, hay nói rộng hơn, đạo đức. Chỉ thông qua ghi nhớ việc duy mới diễn ra, con người mới thực sự nhập tâm tiếp thu giá trị các ý tưởng mới. Kỹ thuật này không chỉ để ghi nhớ những thông tin bổ như các cỗ bài, còn để khắc vào não những dòng chữ ý tưởng nền tảng.
Nhưng rồi, vào thế kỷ mười lăm, nhờ phát kiến trong ngành in của Gutenberg, sách trở thành hàng hóa sản xuất hàng loạt, và đến một lúc việc ghi nhớ những gì được in trên trang giấy chẳng còn quan trọng nữa. Kỹ thuật ghi nhớ từng đóng vai trò chính yếu trong nền văn hóa cổ điển Trung cổ, bị phong kín cùng với những truyền huyền vào thời Phục hưng, và đến thời kỳ Khai sáng, chúng bị bỏ rơi sau những cuộc biểu diễn hội hè và cả đống sách tự học hời hợt - chỉ mới được khôi phục lại trong vài thập kỷ cuối cùng của


thế kỷ hai mươi để dụng vào cuộc thi kỳ quặc và độc nhất này.

Người đứng đầu công cuộc chấn hưng kỹ thuật rèn luyện trí nhớ này là Tony Buzan, nhà giáo dục khôn khéo sáu mươi bảy tuổi người Anh, người tự phong “bậc thầy”. Ông nhận mình (rõ ràng không hề ý mỉa mai) người “chỉ số sáng tạo” cao nhất thế giới. Khi tôi gặp ông tại một quán ăn ở tòa nhà Con Edison, ông mặc bộ vét màu xanh hải quân có năm chiếc cúc lớn viền vàng đi kèm áo sơ mi không cổ, một chiếc cúc lớn khác siết họng tạo cho ông cái vẻ một vị linh mục Chính thống giáo. Một cái ghim hình bộ não điểm trang ve áo. Mặt đồng hồ của ông là phiên bản bức tranh Sự dai dẳng của trí nhớ của Dali (bức tranh hình mặt đồng hồ chảy sũng). Ông gọi các thí sinh “những chiến binh trí óc.”

Khuôn mặt Buzan với mái tóc hoa râm, nhiều nếp nhăn và vết bong da đây đó - trông già hơn cả chục tuổi so với lứa tuổi sáu mươi bảy, nhưng phần còn lại trên người ông thì sung sức như một người ba mươi. Ông kể mỗi sáng đều chèo thuyền chừng sáu đến mười kilômét dọc sông Thames, ông giải việc ăn nhiều rau “giúp bổ não”. “Ăn đồ tạp nham: bộ não tạp nham. Thức ăn lành mạnh: bộ não lành mạnh,” ông nói.

Khi đi bộ, Buzan lướt nhẹ nhàng nhu bóng hockey trượt trên băng (sau này ông bảo, đó là kết quả bốn mươi năm rèn luyện theo Kỹ thuật Alexander). Khi nói, ông khua bàn tay với sự chừng mực chính xác và tao nhã chỉ có được do đứng trước gương luyện tập. Thường thì, ông nhấn mạnh điểm quan trọng bằng cách bung mạnh các ngón tay đang nắm chặt.

Buzan sáng lập Giải địch Thế giới về Trí nhớ năm 1991, từ đó thành lập thêm giải vô địch quốc gia ở hơn chục nước, từ Trung Quốc đến Nam Phi đến Mexico. Ông bảo kể từ những năm 1970 ông làm việc với sự sốt sắng của một nhà truyền đạo để những kỹ thuật ghi nhớ này được đưa vào các trường học trên khắp thế giới. Ông gọi đó là “cuộc cách mạng giáo dục toàn cầu tập trung vào cách học.” Và ông tự cho mình là một khối tài sản quan trọng vẫn đang sinh sôi nảy nở. (Theo báo chí, trước khi chết, Michael Jackson đã chi đến 343.000 đô la cho dịch vụ tăng cường trí nhớ của Buzan.)
Buzan tin rằng cách giảng dạy trường học hoàn toàn sai lầm. Họ tống hàng loạt thông tin vào đầu học sinh, nhưng không dạy các em cách lưu giữ chúng. Việc ghi nhớ bị mang tiếng xấu là chỉ dùng để đối phó kỳ thi trước mắt Nhưng chính truyền thống học vẹt buồn tẻ đã làm hỏng nền giáo dục phương Tây chứ không phải việc ghi nhớ. “Suốt hơn một thế kỷ qua, chúng ta đã định nghĩa sai về trí nhớ, hiểu nó chưa toàn diện, vận dụng nó sai cách, rồi lại chê trách không thấy hiệu quả lẫn hứng thú gì,” Buzan lập luận. Nếu ghi nhớ theo kiểu học vẹt là nguệch ngoạc những ấn tượng lên bộ não thông qua sự lặp đi lặp lại thô bạo - kiểu phương pháp “lặp nhiều nhớ sâu” cũ mòn - thì thuật ghi nhớ là một cách nhớ thông tin tinh tế hơn bằng cách dùng các kỹ thuật. Nó nhanh hơn, đỡ mệt hơn, và tạo ức lâu dài hơn, Buzan bảo tôi.
“Bộ não giống như một khối cơ”, ông bảo, rèn luyện trí nhớ một hình thức luyện tập trí óc. Theo thời gian, cũng như bất kỳ hình thức rèn luyện nào, sẽ làm bộ não khỏe mạnh hơn, nhanh nhẹn hơn, linh lợi hơn. Ý tưởng này đã từ thời khởi nguyên của rèn luyện trí nhớ. Các nhà hùng biện La lập luận rằng thuật ghi nhớ - tức thuật giữ lại tri thức sắp xếp chúng một cách thích hợp - một công cụ sống còn cho việc sáng tạo những ý tưởng mới. Ngày nay, “phương pháp rèn luyện trí não” đã rất thịnh hành trong công chúng. Những phòng luyện tập bộ óc, các trại thúc đẩy trí nhớ thứ mốt đang phát triển, phần mềm luyện tập trí nhớ một ngành kinh doanh mang lại 265 triệu đô la năm 2008, chắc chắn một phần do nghiên cứu chỉ ra rằng những người già vẫn duy trì hoạt động trí óc tích cực thông qua việc chơi trò ô chữ, cờ vua thể ngăn ngừa được


bệnh Alzheimer chứng mất trí nhớ tiến triển, nhưng chủ yếu do thế hệ Baby Boom[3] quá sợ chứng quên. Tuy có những bằng chứng khoa học vững chắc cho thấy bộ não hoạt động tích cực sẽ có lợi trong việc ngăn ngừa chứng quên, nhưng những nhận định hoàng tráng nhất của Buzan về hiệu ứng phụ của “rèn luyện trí nhớ” lại (ít nhất) khiến người ta có phần hoài nghi. Dẫu vậy, kết quả thực tế cũng khó bác bỏ. Tôi vừa xem một thí sinh bốn mươi bảy tuổi nhắc lại đúng thứ tự một trăm từ ngẫu nhiên anh ta mới học thuộc vài phút trước.

Buzan hăm hở muốn thuyết phục tôi tin rằng trí nhớ của ông được cải thiện theo năm tháng, ngay cả khi ông già đi. “Người ta cứ cho rằng chuyện suy giảm trí nhớ tự nhiên vì nó thuộc về chức năng cơ thể con người” ông bảo. “Nhưng đó là một lỗi lập luận, điều thường xảy ra không không nhất thiết điều tự nhiên. do khiến trí nhớ con người kém dần bởi chúng ta thực sự đang luyện tập kiểu phản-Olympic. Điều chúng ta làm với bộ não cũng tương tự như bắt một vận động viên luyện tập cho cuộc thi Olympic phải ngồi xuống nốc mười lon bia mỗi ngày, hút năm mươi điếu thuốc, lái xe đi làm, có khi tập vài bài tập cật lực đến có hại mỗi tháng một lần, và thời gian còn lại là xem tivi. Rồi chúng ta băn khoăn, tại sao người đó không thi đấu tốt Olympic. Đó điều chúng ta đang làm với trí nhớ.”

Tôi hỏi quấy Buzan về chuyện học những kỹ thuật này khó khăn ra sao. Các thí sinh rèn luyện thế nào? Trí nhớ của họ cải thiện nhanh chậm ra sao? Họ dùng những kỹ thuật này trong đời sống hàng ngày không? Nếu chúng thực sự đơn giản hiệu quả như ông nói, thì tại sao trước đây tôi chưa hề nghe đến? Tại sao tất cả chúng ta không sử dụng chúng?

“Anh biết đấy,” ông đáp, “thay vì hỏi tôi những câu đó, anh nên tự đi thử thì hơn.”

“Theo lý thuyết, một người như tôi phải rèn luyện mất bao lâu để tham dự Giải vô địch Hoa Kỳ về trí nhớ?” tôi hỏi ông.

“Nếu anh muốn lọt vào tốp ba của Giải địch Hoa Kỳ, thì anh nên luyện tập một tiếng mỗi ngày, sáu ngày một tuần. Nếu anh dành chừng ấy thì giờ, anh sẽ thi thố ngon lành. Nếu anh muốn vào giải địch thế giới, anh cần dành ba đến bốn tiếng mỗi ngày trong sáu tháng cuối trước khi giải diễn ra. Nặng lắm đấy.”

Cuối buổi sáng hôm đó, khi các thí sinh đang cố ghi nhớ bài thơ “Tấm thảm dệt hình tôi,” Buzan kéo tôi sang một góc đặt tay lên vai tôi.

“Còn nhớ cuộc trò chuyện của chúng ta không? Hãy nghĩ về nó. Anh thể người trên sân khấu kia giải địch Hoa Kỳ năm sau.”

Trong giờ nghỉ giải lao giữa vòng thi nhớ thơ và vòng thi nhớ tên người-khuôn mặt, tôi tìm ra vỉa hè bên ngoài tòa nhà Con Ed để thoát khỏi không khí ẩm ướt như trong phòng thay đồ. Ở đó tôi bắt gặp chuyên gia trí nhớ người Anh Ed Cooke, tóc như mớ giẻ, chống gậy tập tễnh cạnh anh bạn hẩu cao lều nghều của anh ta, đại kiện tướng người Áo, Lukas Amsuss, họ đang cuốn thuốc lá.

Ed đã tốt nghiệp trường Oxford mùa xuân năm trước, bằng ưu về tâm triết học, anh ta kể đang tính chuyện viết một cuốn sách nhan đề Nghệ thuật Nội quan đồng thời theo đuổi bằng Tiến ngành khoa học nhận thức Đại học Paris, nơi anh đang tiến hành một nghiên cứu khác nhằm “làm con người cảm thấy thể họ đã co lại kích thước một phần


mười bình thường.” Anh ta cũng đang trong quá trình sáng tạo một màu mới - “không chỉ là một màu mới, mà một cách hoàn toàn mới để quan sát màu sắc.” Lukas, sinh viên luật Đại học Vienna, tự quảng cáo mình tác giả của một cuốn sách nhỏ nhan đề “làm thế nào tăng gấp ba lần IQ của bạn,” vừa đứng dựa vào tòa nhà, gắng thanh minh với Ed về màn trình diễn nghèo nàn của anh ta ở vòng thi nhớ chữ ngẫu nhiên: “Tôi chưa bao giờ nghe đến những từ tiếng Anh này, ‘yawn,’ ‘ulcer,’ ‘aisle’[4] anh ta khăng khăng giữ cách phát âm cứng đơ của người Áo, “Sao nhớ cho nổi?”

Thời điểm đó, Ed đứng thứ mười một Lukas thứ chín trong nhóm những người trí nhớ tốt nhất thế thế giới, hai đại kiện tướng duy nhất tại cuộc thi đó, và là những thí sinh duy nhất xuất hiện trong bộ đồ vét và đeo cà vạt. Họ mong muốn chia sẻ với tôi (hay bất kỳ ai) kế hoạch của họ để kiếm tiền trên danh tiếng trí nhớ của họ bằng cách xây dựng một “phòng tập trí nhớ” lấy tên Học viện Trí tuệ Oxford. Ý tưởng của họ là những người theo học - hầu hết là các giám đốc, họ hy vọng vậy - sẽ trả tiền để có người huấn luyện trí nhớ riêng. Một khi thế giới hiểu ra lợi ích của rèn luyện trí nhớ, họ tưởng tượng rằng tiền sẽ từ trên trời đổ xuống. “Cuối cùng,” Ed bảo tôi, “chúng tôi đang tìm cách khôi phục lại nền giáo dục phương Tây.”

“Chúng tôi thấy nó đang thoái hóa,” Lukas thêm.

Ed giải thích cho tôi rằng anh việc anh tham gia vào các cuộc thi trí nhớ một phần trong nỗ lực làm sáng tỏ những bí mật trí nhớ loài người. “Tôi nhận ra rằng có hai cách để biết phương thức hoạt động của bộ não,” anh nói. “Trước tiên là cách ngành tâm lý học thực chứng đang làm, nghĩa là bạn quan sát bên ngoài và sử dụng nhiều biện pháp đo đạc đối với nhiều người khác nhau. Cách kia đi theo một logic rằng hoạt động tối ưu của một hệ thống có thể mách bảo bạn điều gì đó về thiết kế của nó. Có lẽ cách tốt nhất để hiểu được trí nhớ con người cố gắng tối ưu hóa - tưởng nhất nghiên cứu những người sáng dạ trong điều kiện họ nhận được lời nhận xét chính xác khách quan. Nghĩa lập đồ trí nhớ.”

Cuộc thi này diễn ra với độ kịch tính cũng cỡ như kỳ thi SAT. Người dự thi ngồi yên lặng trước bàn nhìn chằm chằm vào những tờ giấy, rồi viết vội câu trả lời đưa cho giám khảo. Sau mỗi vòng thi, điểm số nhanh chóng được tính toán thể hiện trên một màn hình trước phòng thi. Thứ khiến một tay nhà báo đang cố viết bài về cuộc thi địch trí nhớ quốc gia nản nhất môn “thể thao” này không làm công chúng hồi hộp căng thẳng như trò chơi bóng rổ, hay thậm chí như cuộc thi đánh vần. Đôi khi, thật khó biết liệu các đấu thủ đang chìm sâu vào suy nghĩ hay đang ngủ. Hẳn thể thấy nhiều hành vi kiểu day mạnh vào thái dương, nhịp chân lo lắng thi thoảng vài cái nhìn trống rỗng thua cuộc, nhưng khán giả chẳng thể tiếp cận nổi hầu hết những diễn ra trong đầu các đấu thủ.
Một ý nghĩ muộn phiền chạy qua đầu tôi, khi tôi đứng sau khán phòng Con Edison quan sát những con người được cho là bình thường này thực hiện màn biểu diễn trí óc gần như không thấu nổi: tôi không lấy một manh mối nào về việc trí nhớ của tôi hoạt động ra sao. Liệu có một nơi gọi là thùy trước não không? Một làn sóng chậm rãi những câu hỏi quét ngang tôi - những điều tôi chưa bao giờ để tâm đột nhiên cùng ào tới ráo riết đòi giải đáp. Chính xác thì trí nhớ gì? được tạo ra thế nào? được lưu trữ thế nào? Hai thập kỷ rưỡi đòi tôi đã trải qua với một trí nhớ hoạt động suôn sẻ liền lạc đến nỗi tôi chưa bao giờ do để dừng lại thắc mắc về chế của nó. Vậy mà, giờ đây khi dừng lại để suy nghĩ về nó, tôi nhận ra nó thực sự không hề hoạt động liền mạch như vậy. Nó hoàn toàn kẹt lại một số lĩnh vực, nhưng lại hoạt động quá tốt một số lĩnh vực khác. quá


nhiều điều bất thường khó giải thích. Đúng sáng hôm đó, trong đầu tôi không hiểu sao cứ trở đi trở lại một bài hát khó chịu của Britney Spears, khiến lúc đi tàu điện ngậm tôi cứ phải vừa lắc vừa lẩm bẩm mấy điệu hát lẻ Hanukkah để đẩy ra khỏi óc. Thế làm sao? Vài ngày trước, tôi cố kể cho một người bạn về một tác giả tôi ngưỡng mộ, thế giờ tôi chỉ nhớ được chữ cái đầu tiên tên ông ấy, chẳng khác. Sao chuyện đó xảy ra? sao tôi không nhớ hết về những chuyện trước độ tuổi lên ba? sao tôi không thể nhớ ngày hôm trước tôi ăn sáng món gì, tôi nhớ được chính xác bốn năm trước tôi ăn sáng món gì - Bắp rang, phê, một quả chuối - khi tôi hay tin một máy bay đã đâm vào tòa tháp đôi? tại sao tôi luôn quên do mình mở của tủ lạnh?
Tôi rời cuộc thi địch trí nhớ Hoa Kỳ, háo hức muốn tìm xem bằng cách nào Ed Lukas làm được như vậy. Họ chỉ những nhân phi thường chăng, những kẻ xuất chúng trên cung đường tiến hóa hình chuông của loài người, hay chúng ta thể học được điều đó từ tài năng của họ? Tôi hoài nghi về họ với chính do tôi hoài nghi về Tony Buzan. Bất cứ bậc thầy tự phong nào đã kiếm được cả một gia tài từ ngăn sách “tự phát triển kỹ năng” đều kích hoạt con người thám tử ba xu trong mỗi nhà báo, Buzan đúng đã bật mọi cái chuông báo động trong tôi. Tôi chưa đủ thông tin để biết chắc liệu ông đang rao bán sự cường điệu hay khoa học, nhưng cái bao “cách mạng giáo dục toàn cầu” - ông sử dụng chắc chắn mùi vị cường điệu.

Có thật là bất cứ ai cũng có thể học được cách ghi nhớ nhanh chóng một lượng lớn thông tin không? Bất cứ ai? Tôi sẵn tin Buzan khi ông bảo những kỹ thuật người ta thể học để cải thiện đôi chút trí nhớ của con người trong tầm giới hạn, nhưng tôi không tin hoàn toàn ở ông (hay Ed) khi ông bảo rằng bất cứ tên ngốc nào ngoài đường cũng có thể học ghi nhớ những cỗ bài hay hàng ngàn chữ số nhị phân. Sẽ hợp lý hơn nhiều nếu nói rằng: ràng Ed và đồng nghiệp của anh ta có tài năng bẩm sinh kỳ dị về trí não tương tự như chiều cao của khổng lồ Andre hay đôi chân của Usain Bolt.
Quả thật, nhiều kỹ thuật giúp cải thiện trí nhớ do các bậc thầy về các phương pháp tự phát triển kỹ năng viết ra bị hoen bởi những mánh vặt ba xu. Khi tôi xem gian hàng sách tự học hiệu sách Barnes&Noble, tôi thấy một lốc sách đưa ra những khẳng định sốt sắng rằng chúng thể dạy tôi làm thế nào để “không bao giờ quên số điện thoại hay một ngày hẹn” hay “phát triển trí nhớ ngay tức thì.” Một cuốn sách còn tuyên bố thể chỉ cho tôi cách sử dụng “90 phần trăm còn lại” của bộ não, đó một trong những lời sáo rỗng giả danh khoa học, chẳng khác việc tôi nói mình thể được dạy dỗ để dùng 90 phần trăm còn lại của bàn tay.

Nhưng lĩnh vực cải thiện trí nhớ cũng đã được nghiên cứu bởi những người mà mối quan hệ của họ với chủ đề này rõ ràng ít mang tính vụ lợi hơn Buzan, và những nhận định của họ đã được người trong ngành xem xét phản biện. Các nhà tâm lý học lý thuyết quan tâm đến việc mỏ rộng khả năng trí nhớ bẩm sinh của chúng ta kể từ khi Hermann Ebbinghaus lần đầu tiên đưa vấn đề nghiên cứu trí nhớ vào phòng thí nghiệm từ những năm 1870.

Cuốn sách này viết về một năm tôi dành thời gian thử cố gắng rèn luyện trí nhớ của mình gắng thấu hiểu - hoạt động nội tại của nó, khiếm khuyết tự nhiên của nó, tiềm năng còn tàng ẩn của nó. Cuốn sách cũng trình bày làm thế nào tôi biết rằng trí nhớ của chúng ta thực sự thể cải thiện được, trong những giới hạn nhất định, rằng mọi người trong chúng ta thể thực sự nắm bắt những kỹ năng của Ed Lukas. cũng nhắc đến các nghiên cứu khoa học của giới chuyên môn; quá trình các nhà khoa học chuyên nghiên cứu các nhà địch về trí nhớ khám phá ra những nguyên tắc chung để đạt được kỹ năng như thế nào thông qua nghiên cứu quá trình rèn luyện bộ não của các vận động viên trí óc;


quyết họ tìm ra cũng quyết để cải thiện gần như tất cả mọi điều. quyển sách này không ý viết theo dạng sách tự học, tôi hy vọng bạn thông qua hiểu được cách một người rèn luyện trí nhớ những kỹ thuật ghi nhớ đó áp dụng trong đời sống hàng ngày như thế nào.

Những kỹ thuật đó có một di sản quan trọng và phong phú đáng ngạc nhiên. Vai trò của chúng trong sự phát triển văn hóa phương Tây là một trong những chủ đề trong lịch sử tri thức, lĩnh vực không mấy ai biết ngoài những phạm vi học thuật hạn hẹp được nghiên cứu. Hệ thống trí nhớ như cung trí nhớ của Simonides đã định hình mạnh mẽ cách thức con người tiếp cận với thế giới từ thời xa xưa trong thời kỳ Trung cổ Phục hưng. Nhưng sau đó, chúng biến mất.

Ngày xưa, trí nhớ gốc rễ của mọi khía cạnh văn hóa. Ngày nay, chúng ta những cuốn sách, hình ảnh, và vô số tập tài liệu chất cao như núi lưu trữ những di sản văn hóa, đó là chưa kể đến Internet có thể đưa ra câu trả lời cho hầu hết những câu hỏi chỉ trong một cú nhấp chuột, lại thêm những chiếc điện thoại thông minh luôn-luôn-có-mặt bên cạnh để quản cuộc sống chúng ta. Trong ba mươi nghìn năm qua, kể từ khi loài người bắt đầu vẽ những ức của họ lên tường hang động, chúng ta dần thay thế trí nhớ tự nhiên của mình bằng sự trợ giúp của bộ nhớ ngoài với siêu cấu trúc rộng lớn - một quá trình tăng tốc theo cấp số những năm gần đây.
Về sinh học, chúng ta hoàn toàn giống với tổ tiên, những người đã vẽ các hình ảnh bò rừng lên tường động Lascaux Pháp - một trong số những sáng tạo văn hóa sớm nhất còn tồn tại đến ngày nay. Bộ não của chúng ta không lớn hơn hay phức tạp hơn bộ não của tổ tiên. Nếu một đứa cổ đại được thả vào vòng tay của một cặp vợ chồng sống tại New York thế kỷ hai mốt, thì đứa hẳn sẽ lớn lên chẳng khác biệt với bạn cùng trang lứa.

Điều duy nhất phân biệt chúng ta với họ, ấy trí nhớ. Không phải trí nhớ khu trú trong bộ não chúng ta, đứa trẻ sinh ra ngày nay bước vào thế giới như một tấm bảng đá trắng tinh, giống như đứa trẻ được sinh ra cách đây ba mươi ngàn năm, cái khác biệt những ức được lưu giữ bên ngoài chúng ta - trong những cuốn sách, bức hình, bảo tàng, ngày nay là truyền thông kỹ thuật số. Hãy tưởng tượng một mai bạn thức dậy phát hiện ra rằng mọi dấu vết của thế giới trở nên hình. Thế giới của chúng ta sẽ ngay lập tức sụp đổ. Văn chương, âm nhạc, pháp luật, chính trị, khoa học, toán: Nền văn hóa của chúng ta một đại công trình được xây dựng từ những bộ nhớ ngoài.
Nếu trí nhớ phương tiện để chúng ta gìn giữ những thứ được xem giá trị nhất, thì khổ thay cũng gắn chặt với sự tồn tại tạm thời của chúng ta. Một khi chúng ta chết đi, ức của chúng ta chết theo. thể nói, hệ thống bộ nhớ ngoài chi tiết chúng ta tạo ra là một cách để tránh khỏi cái chết. giúp những ý tưởng vượt qua thời gian không gian một cách hữu hiệu, cho phép xây dựng ý tưởng mới trên ý tưởng khác sẵn, nếu con người chỉ bảo lưu tưởng mức độ truyền ý nghĩ từ bộ não này sang bộ não khác thì không thể nào làm được.
Việc ngoại hóa bộ nhớ không chỉ thay đổi cách người ta suy nghĩ; cũng dẫn đến một chuyển biến sâu sắc hơn trong ý niệm về sự thông minh. Bộ nhớ trong trở nên giảm sút giá trị. Sự uyên bác thay đổi từ việc xử thông tin bên trong đến khả năng biết cách và biết nơi để tìm được thông tin trong thế giới lộ trí nhớ ngoài. Nơi duy nhất bạn còn thấy người ta vẫn sử dụng thuật ghi nhớ Giải địch Trí nhớ Thế giới độ hơn chục cuộc thi địch trí nhớ cấp quốc gia được tổ chức khắp thế giới. Điều này đáng phải suy


nghĩ. Điều từng là nền tảng giáo dục phương Tây giờ may mắn lắm thì được xem là chuyện lạ. Nhưng khi văn hóa của chúng ta chuyển biến từ một nền văn hóa về bản dựa trên bộ nhớ trong sang một nền văn hóa về bản dựa trên bộ nhớ lưu trữ ngoài bộ não, thì điều đó nghĩa đối với chúng ta hội chúng ta? Những thành tựu con người đạt được không thể tranh cãi. Nhưng chúng ta đã phải đánh đổi những gì? Sẽ ra sao nếu chúng ta mất đi trí nhớ?
Share:

0 comments:

Đăng nhận xét

a1c4b3.blogspot.com

Tìm kiếm Blog này

lifecycle hook angular

Labels