Chương hai: kẻ nhớ quá nhiều
Tháng Năm
1928, nhà báo trẻ S bước vào văn phòng của nhà tâm lý học thần kinh người Nga
A.R. Luria và nhã nhặn đề nghị được kiểm tra trí nhớ. Anh được sếp cử đến, ông ta là biên tập của tờ báo nơi anh làm
việc. Mỗi sáng, tại cuộc họp giao ban hàng ngày, ông sếp phân phát nhiệm vụ
trong ngày cho đám phóng viên bằng hàng tràng liên thanh
đầy
những
sự
kiện,
đầu
mối
liên
lạc,
và
các
địa
chỉ
mà
họ
cần
để
viết
bài.
Tất
cả
đều cắm
cúi
ghi
chép
tràng
giang
đại
hải,
trừ
một
người.
S
chỉ
quan
sát
và
lắng
nghe.
Một buổi sáng, vì phát ngấy với sự thờ ơ rành rành của anh phóng viên nọ, ông biên tập
mới kêu S đến để giảng cho anh một bài về sự cần thiết phải nghiêm túc trong công việc.
Anh nghĩ mọi thông tin biên tập nói ra buổi sáng chỉ bởi người nói thích tự nghe giọng mình sao? Anh nghĩ
mình có thể viết bài mà không
cần đầu mối cấp tin sao? Rồi thì anh có
thể liên hệ với mọi người bằng phép ngoại cảm, không cần đến địa chỉ của họ đấy hẳn? Nếu
muốn có tương
lai trong giới
báo chí thì
tốt hơn là phải bắt
đầu tập trung
và ghi chép đi, ông biên tập bảo anh thế.
S cứ ngây người nhìn ông biên tập suốt cuộc quát tháo và chờ ông ta tuôn cho hết. Rồi anh bình tĩnh nhắc lại chi tiết của cuộc
họp buổi sáng hôm đó, từng từ một. Ông biên tập ngã ngửa người ra. Ông không
biết phải nói gì. Nhưng sau này S kể, chính anh còn cảm thấy sốc hơn. Cho đến
giây phút đó anh luôn cho rằng việc con người ta nhớ tất tật mọi thứ là chuyện hết sức bình thường.
Khi đến văn phòng của Luria, S vẫn hoài nghi về sự độc đáo của mình. “Anh ta không
nhận thấy điều gì khác biệt ở bản thân, và không thể hình dung được ràng
trí nhớ của anh khác với những người khác,” nhà tâm lý học nhớ lại, ông đã cho
anh ta làm nhiều bài kiểm tra để đánh giá sức nhớ của anh. Đầu tiên,
Luria đề nghị S ghi nhớ danh sách những
chữ số, và ngạc nhiên lắng nghe đối tượng nhút nhát của mình nhắc lại
đúng bảy mươi con số, hết xuôi chiều rồi đến ngược chiều. “Dù tôi có đưa cho
anh ta các chuỗi ký tự là những từ có nghĩa
hay không có nghĩa, là chữ số hay âm tiết, được thể hiện qua lời nói hay viết,” Luria nói. “Điều duy nhất anh ta cần là ba-đến-bốn giây ngắt quãng giữa các chuỗi ký tự, và anh
ta không gặp chút khó khăn nào để nhắc lại đúng những gì tôi đã đưa ra.” Luria cho S thử hết thí nghiệm này đến thí nghiệm
khác, vẫn chỉ duy nhất một kết quả: thật khó mà bắt bí được anh ta. “Là người trực tiếp làm thí nghiệm
cho anh ta, chẳng bao lâu tôi bắt đầu thấy
bối rối cực độ,” Luria nhớ lại. “Đơn giản là tôi phải thừa nhận rằng... tôi
không thể thực hiện điều người ta nghĩ là nhiệm
vụ đơn giản nhất một nhà tâm lý học có thể làm: đo năng
lực trí nhớ của một cá nhân.”
Luria tiếp tục nghiên cứu S trong ba mươi năm tiếp
theo, và cuối cùng viết hẳn một cuốn sách về anh, Trí óc của một chuyên gia trí nhớ: Cuốn sách nhỏ về một bộ nhớ mênh mông
(The mind of a Mnemonist: A little book about a vast memory), đây là một trong
những tác phẩm kinh điển nhất về các hiện tượng tâm lý dị thường.
S có thể ghi nhớ những công thức toán phức tạp mà không cần phải biết
gì về toán, nhớ bài thơ tiếng Ý mà không cần nói được tiếng Ý, kể cả những câu rất phức tạp. Anh không chỉ nhớ được những tài liệu rất dài,
mà đặc biệt hơn, dường
như trí nhớ của anh không bao giờ suy giảm.
Với người bình thường, trí nhớ dần sa sút theo thời
gian, hiện tượng này gọi là “đường cong lãng quên.” Từ thời điểm bạn nắm được
một thông tin mới, “độ bám giữ” thông tin
đó trong trí nhớ của bạn bắt đầu “lơi” dần ra, cho
đến khi cuối cùng để nó “tuột đi” hẳn. Trong những thập niên cuối của thế kỷ
mười chín, nhà tâm lý học người Đức Hermann Ebbinghaus bắt đầu định lượng quá
trình quên lãng không thể chặn đứng được này. Để hiểu trí nhớ suy giảm theo
thời gian như thế nào, ông mất nhiều năm để nhớ 2.300 âm tiết vô nghĩa cấu tạo bằng ba ký tự như GUF, LER, và NOK. Vào những khoảng thời gian
nhất định, ông tự kiểm tra xem có bao nhiêu âm tiết ông đã quên, và trí nhớ giữ
lại được bao nhiêu. Khi
vẽ
kết
quả
lên
đồ
thị,
ông
có
một
đường
cong
trông
như
thế
này:
Dù thực hiện thí nghiệm
này với bản thân bao nhiêu lần, kết quả về đại thể vẫn luôn như nhau:
Sau một tiếng
kể từ khi học một loạt những
âm tiết vô nghĩa, hơn phân nửa
số đó sẽ bị quên. Sau
ngày đầu tiên,
mười phần trăm
nữa biến mất.
Sau một tháng,
mười bốn phần trăm nữa. Sau đó, những gì còn đọng lại trong
trí nhớ ít nhiều ổn định - chúng được củng
cố trong trí nhớ dài hạn - và tốc
độ lãng quên
giảm xuống rất
chậm.
Trí nhớ của S dường như không tuân theo đường cong
lãng quên này. Dù người ta có yêu cầu anh nhớ nhiều bao nhiêu, hay đã qua bao
lâu - có khi đến tận mười sáu năm sau - thì anh vẫn luôn có thể đọc lại những
tài liệu đó với sự chính xác như thể vừa mới đọc xong. “Anh ta sẽ ngồi xuống,
mắt nhắm lại, yên lặng một lúc rồi bắt đầu: “Vâng, vâng... đây là chuỗi ký tự ông đã cho tôi xem khi chúng
ta ở nhà ông... lúc đó ông đang ngồi ở bàn...
ông mặc bộ vét màu xám... rồi cứ thế anh ta thuật lại chính xác như thể
tôi vừa cho anh ta đọc ở buổi trước,”
Luria viết.
Theo lời kể truyền cảm trong của Luria, đôi khi S hiện ra như một du khách đến từ hành
tinh khác, còn trong biên niên ký ngành tâm lý học bất thường, trường hợp của
anh ta
được xem là hoàn toàn
độc đáo. Nhưng
khi bắt tay vào luyện
trí nhớ, tôi nhận ra một cách giải thích khác thú vị hơn về câu chuyện của S: rằng trường hợp như S cực kỳ hiếm hoi, nhưng những người bình thường với bộ não yếu đuối,
dễ quên như chúng ta vẫn có nhiều
khả năng học theo anh ta. Quả thật, những kỹ năng lạ thường
của anh ta có thể đang ngủ yên
đâu đó trong
tất cả chúng ta.
Sau khi hoàn tất bài tường thuật
về cuộc thi đã đưa tôi đến New York,
theo trình tự làm
báo thông thường tôi sẽ quay về nhà, viết một bài ngắn, và chuyển sang đề tài
khác. Nhưng lần này thì không thế. Thay vì bắt tàu về Washington, tôi lại thấy mình đứng ở
cuối một khán đài khác - lần này là một trường trung học công ở khu Upper East
Side thuộc Manhattan, nơi Ed Cooke sẽ dạy một lớp gồm các học sinh mười sáu tuổi phương pháp sử dụng kỹ thuật ghi
nhớ để vượt qua các kỳ thi.
Tôi đã hủy kế hoạch
của mình ngày hôm đó và bám theo bởi anh ta đã hứa nếu tôi đi cùng
anh ta đủ lâu, thì anh ta sẽ giải
thích chi tiết cho tôi làm thế nào anh ta và Lukas
đã tự học ghi nhớ được như S. Trước khi tìm hiểu
những bí quyết
sâu kín như vậy cũng nên có một vài nền tảng căn bản đã. Ed muốn
cho tôi và các học sinh thấy rằng trí nhớ của chúng ta vốn dĩ đã phi thường rồi - ít nhất là khi
học những loại
thông tin nhất
định. Để chứng
minh, anh ta mang theo bài kiểm
tra trí nhớ có tên “nhận
diện hình đúng
giữa hai hình”.
Sau khi tự giới thiệu
với các học sinh bằng vài câu tự giễu kiểu, “Tôi đến từ nước Anh, nơi
người ta thích dành thời gian để ghi nhớ thay vì phát triển đời sống xã hội
toàn vẹn,” anh ta chứng minh khả năng ghi nhớ của mình bằng cách học thuộc một
số có bảy mươi chữ số trong hơn một phút (nhanh hơn gấp ba lần so với thời gian
S cần để thực hiện việc tương đương), rồi ngay sau đó cho tôi và các học sinh làm luôn bài kiểm tra trí nhớ.
“Tôi sẽ cho các bạn xem một chùm các bức tranh, và tôi sẽ chiếu rất, rất nhanh,” anh ta
tuyên bố, cố nhấn giọng trước đám thiếu niên ồn ào. “Tôi muốn các bạn gắng nhớ càng
nhiều càng tốt.” Anh ta nhấn một nút trên
điều khiển, đèn
trần mờ đi. Một chuỗi
hình ảnh bắt đầu
chạy vụt qua màn hình
máy chiếu trước
phòng, mỗi hình
chỉ lưu lại
chưa đầy nửa giây. Có một hình Muhammad Ali đang đứng trong hân hoan chiến thắng trước Sonny
Liston. Rồi một hình những
thanh tạ. Rồi dấu chân
Neil Armstrong trên
mặt trăng. Rồi bìa
cuốn
sách Phả hệ của
đạo đức (On
the Genealogy of Morals) của
Friedrich Nietzsche. Và một
bông hồng đỏ.
Có ba mươi tấm hình như vậy, mỗi hình hiện ra và
biến mất nhanh đến nỗi chúng tôi không dám chắc có thể nhớ được hình nào không, đừng nói gì đến tất cả. Nhưng
tôi ráng hết mức để bắt vài chi tiết từ mỗi hình và ghi chú lại trong đầu. Sau tấm cuối cùng, hình
một con dê, bức tường
trắng trơn và đèn sáng trở lại.
“Giờ, các bạn nghĩ mình có thể nhớ được tất cả tấm
hình đó không?” Ed hỏi chúng tôi.
Một cô bé ngồi ngay trước tôi kêu lên đầy mỉa mai, “Không đời nào!” gây tiếng cười khúc khích cho đám bạn.
“Nói hay lắm!” Ed reo lên đáp trả, rồi nhìn xuống
đồng hồ xem giờ. Tất nhiên, điểm chính
yếu của bài tập này - còn có thể là gì khác nữa đây - là chúng tôi sẽ có thể nhớ tất cả những hình đó. Cũng như cô bé ngồi đằng trước, tôi thấy thật khó mà tin nổi.
Sau khi chờ ba mươi phút để đường cong lãng quên làm cái việc không thể tránh khỏi là xóa sổ những hình ảnh chúng tôi được
nhìn chớp nhoáng kia, Ed đưa ra một loạt hình mới. Lần này, có hai tấm hình trên màn ảnh. Một là tấm hình chúng tôi đã nhìn lúc trước
và tấm kia chúng tôi
chưa nhìn thấy:
Muhammad Ali bên trái và viên thuốc
Alka-Seltzer đang sủi bọt xì xèo bên phải.
Anh ta đề nghị chúng tôi chỉ tấm hình đã được xem.
Quá dễ. Chúng tôi đều biết mình đã thấy Muhammad Ali chứ không phải những viên
thuốc Alka-Seltzer. “Các bạn không bất ngờ là mình lại nhớ dễ dàng vậy sao?” Ed
hỏi, trước khi chuyển sang hình khác: một con nai bên trái, và cuốn sách
Nietzsche bên phải.
Tất cả chúng tôi cũng đều biết hình đúng. Anh ta đi
hết ba mươi tấm hình, và mọi người trong phòng đều nhận ra hình nào nằm trong
số những bức ảnh mà chúng tôi đã xem trước đó. “Và đây mới là thứ làm say lòng
người,” Ed nói, đi qua đi lại trông rất ra dáng trước khán phòng lót vải sơn. “Chúng ta có thể làm thế này với cả chục ngàn tấm hình, và các
bạn có thể thực hiện gần như chẳng kém gì. Trí nhớ của các bạn đối với hình ảnh là tốt như vậy đấy.” Anh ta nhắc đến những
thí nghiệm thường được trích dẫn, thực hiện vào những năm 1970, khi đó người ta
cũng sử dụng chính bài kiểm tra nhận dạng hình ảnh mà chúng tôi đã làm nhưng thay
vì ba mươi hình, các nhà nghiên cứu yêu cầu đối tượng nhớ mười ngàn hình. (Phải
mất đúng một tuần mới làm xong kiểm tra.) Như vậy trí óc buộc phải ghi dấu rất
nhiều hình ảnh, mà, nhất là chỉ được nhìn mỗi hình một lần. Vậy mà, các nhà
khoa học phát hiện ra rằng mọi người có thể nhớ đến hơn 80 phần trăm những gì họ đã nhìn. Trong một nghiên cứu gần đây hơn, bài kiểm tra như vậy cũng được
thực hiện với 2.300 hình ảnh, nhưng thay vì đề nghị mọi người chọn hình một
trong hai hình là Muhammad Ali hay viên thuốc sủi bọt Alka-Seltzer (một lựa
chọn dễ dàng, dù Cassius Clay (tên khai sinh của Muhammad
Ali) có sôi sục đến thế nào, họ phải chọn giữa những hình ảnh gần như giống hệt
nhau: một xấp những tờ năm đô la và một xấp những tờ một đô la; xe điện màu
xanh và xe điện màu đỏ, tạ tay cầm nhỏ và tạ tay cầm to. Thậm chí khi hai hình
ảnh chỉ có một chi tiết khác biệt nho nhỏ, mọi người vẫn nhớ được hình đúng chính xác đến 90 phần trăm.
Những con số đó quả thật đáng
kinh ngạc, nhưng
tôi nhận ra rốt cục chúng chỉ
lượng hóa một điều
tôi đã biết nhờ bản
năng: trí nhớ của chúng
ta làm việc
hiệu quả kinh
hồn. Trong tất cả những kêu ca về khiếm khuyết
trí nhớ - nào là để chìa khóa không đúng chỗ, quên
tên người này người khác, nhiều việc nói sắp ra miệng rồi tự nhiên lại quên - thì khiếm khuyết lớn nhất có lẽ là: ta quên mất rằng
thật ra mình chẳng mấy khi quên.
“Đây là điều kỳ diệu nhất về bài kiểm tra tôi vừa làm với các bạn,” Ed tuyên bố. “Sau mấy năm nữa, nếu ta thực hiện lại bài
kiểm tra này và hỏi các bạn bức hình nào bạn đã thấy từ trước, thường bạn sẽ
vẫn chỉ ra được bức hình đúng. Đâu đó trong đầu bạn vẫn còn lưu dấu về mọi thứ bạn từng nhìn thấy.”
Nhận định khá táo bạo và có vẻ đáng ngờ, tôi tò mò muốn tìm
hiểu thêm nữa. Chính xác là
trí nhớ của chúng ta tốt đến mức nào? Tôi tự hỏi. Lẽ nào chúng
ta có khả năng nhớ tất cả chăng?
Ý niệm rằng
bộ não không
thực sự quên
điều gì chắc
chắn đã hàm ẩn trong
cách chúng ta nói
về trí nhớ. Những ẩn dụ chúng ta thường dùng để mô tả trí nhớ - tấm hình, máy ghi
âm, gương, máy tính - tất cả đều gợi sự chính
xác của máy móc, như thể trí óc là một kẻ sao
chép tỉ mỉ những trải nghiệm. Thực ra, mãi đến gần đây tôi mới biết hầu hết các nhà tâm
lý học đều ngờ rằng bộ não chúng ta thực sự có chức năng là một cái máy ghi hoàn
hảo - rằng những ký ức cả một đời người được lưu đâu đó trong bộ não, và nếu
chúng không thể được tìm thấy thì không
phải vì chúng
đã biến mất, mà bởi chúng ta đặt chúng nhầm chỗ. Trong một bài báo thường được
trích dẫn, xuất
bản năm 1980,
nhà tâm lý học
Elizabeth Loftus thăm dò các đồng nghiệp và phát
hiện ra rằng 84 phần trăm trong số họ đồng ý với nhận định này: “Mọi thứ chúng
ta học được được lưu trữ vĩnh viễn trong bộ não, mặc dù đôi khi ta không tiếp
cận được một số chi tiết cụ thể. Nhờ thuật thôi miên, hay những kỹ thuật đặc
biệt khác, những chi tiết không thể tiếp cận được đó cuối cùng có thể khôi phục
lại.
Loftus còn viết rằng niềm tin này xuất phát từ một
loạt thí nghiệm được một nhà giải phẫu thần kinh tên Wilder Penfield thực hiện
từ những năm 1934 đến 1934. Penfield dùng các cực dò điện kích thích bộ não
những bệnh nhân động kinh trong khi họ nằm tỉnh táo trên bàn mổ, bộ não lộ ra. Ông đang cố xác định nguồn của cơn động kinh để tìm
cách chữa trị, rồi ông phát hiện ra rằng khi những đầu cực điện chạm vào những
phần nhất định của thùy thái dương, điều bất ngờ xảy ra. Các bệnh nhân bắt đầu mô tả lại rõ
ràng những ký ức lãng
quên từ lâu.
Khi ông chạm
lại cùng điểm
đó, ông thường
nghe được cùng một ký ức. Dựa trên những thí nghiệm này, Penfield tin rằng bộ não ghi lại mọi thứ
nó tiếp nhận ở mọi mức độ tập trung
ý thức khác nhau, và việc ghi lại này là vĩnh
viễn.
Nhà tâm lý học người Hà Lan, Willem Wagenaar cũng
tin như vậy. Từ năm 1978 đến 1984, mỗi ngày ông ghi vào nhật ký một hoặc hai sự kiện đáng nhớ nhất xảy ra hôm ấy.
Với mỗi sự kiện, ông
ghi lại điều
đã xảy ra,
ai liên quan,
nơi xảy ra, và thời
điểm - mỗi
sự kiện ở trên một tấm thẻ khác nhau. Trong năm 1984,
ông bắt đầu tự kiểm tra để xem liệu mình có thể nhớ được bao nhiêu trong sáu năm đó. Ông sẽ rút ra ngẫu nhiên một tấm thẻ xem
mình có nhớ gì về sự kiện trong ngày đó không.
Ông thấy rằng mình có thể nhớ gần
như mọi thứ xảy ra - đặc biệt là những sự kiện gần đây - với chỉ một vài đầu mối gợi ý. Nhưng
khoảng 20 phần
trăm những ký ức cũ nhất dường
như hoàn toàn biến mất.
Những sự kiện này dù được mô tả trong nhật ký của ông bỗng trở nên hoàn toàn xa lạ, như thể chúng xảy ra với một ai đó khác.
Nhưng những ký ức đó có thực sự mất đi không?
Wagenaar không tin như vậy. Ông quyết định nhìn lại mười sự kiện mà ông tin mình đã hoàn toàn quên,
trong đó có đề cập đến sự hiện
diện của người
khác. Ông tìm gặp những
người đó và hỏi họ về những
chi tiết có thể
giúp ông nhớ lại những
ký ức đã mất. Trong
mỗi trường hợp, khi được khơi gợi đúng mức, có
người sẽ cung cấp được một chi tiết giúp Wagenaar khôi phục lại phần ký ức bị lấp.
Không một ký ức nào
của ông thực
sự biến mất.
Ông kết luận
rằng “từ chuyện
này người ta không
thể nói có sự kiện
nào bị lãng quên hoàn
toàn.”
Dầu vậy, trong ba thập niên qua, hầu hết các nhà tâm lý đã trở nên bớt lạc quan về chuyện chúng ta lưu giữ được ký ức đầy đủ về mọi chuyện
trong quá khứ, chỉ còn chờ được đánh
thức. Từ nghiên cứu của các nhà khoa học thần kinh,
một vài bí ẩn về bản chất thực sự của
trí nhớ đã bắt đầu hé lộ, và rõ ràng là việc các ký ức phai mờ dần và cuối cùng
biến mất theo thời gian là một hiện tượng sinh lý có thực xảy ra trong bộ não ở cấp độ tế bào. Và hầu hết các nhà khoa học giờ đây đồng ý
rằng những thí nghiệm của Penfield đã gọi ra những ảo giác - kiểu như cảm giác gặp cùng một trải nghiệm
từng có trước đây (dejà vu) hoặc một
giấc mơ hơn là ký ức thực sự.
Tuy nhiên, sự tái xuất hiện đột ngột của những đoạn ký ức về chuyện trong quá khứ vốn đã
bị lãng quên từ lâu cũng là một trải nghiệm khá thường gặp, và vẫn tồn tại quan điểm cho
rằng chỉ cần một đầu
mối hợp lý, chúng ta có thể
bằng cách nào
đó hồi tưởng
lại từng mẩu nhỏ thông tin đã đi vào bộ não. Thực sự, có lẽ nhận thức sai lầm phổ biến nhất về trí nhớ
con người - điều mà Ed thường
cười nhạo - ấy là một số người có trí nhớ hình ảnh.
Khi tôi căn vặn điều đó, anh ta giãi bày rằng có khi đang ngủ giật mình choàng
dậy, toát mồ hôi lạnh, chỉ sợ ngày nào đó một người có trí nhớ hình ảnh đọc được trên báo chí tin về
Giải Vô địch Trí nhớ Thế giới liền xuất
hiện và hạ anh ta lẫn tất thảy đồng
nghiệp. Anh ta yên
tâm khi biết hầu hết các nhà khoa học đều nhất trí chuyện
này không thể xảy ra. Cho
dù nhiều người tự nhận có trí-nhớ-hình-ảnh, thì không có bằng chứng nào cho
thấy có người thực sự lưu giữ được những
pô-ảnh-chụp-bằng-tâm-trí và nhớ lại với sự chính
xác hoàn hảo. Thực ra, chỉ duy nhất một trường
hợp trí nhớ hình ảnh từng được mô tả trong
các tài liệu khoa học.
Năm 1970, một nhà khoa học thị giác ở Harvard tên Charles Stromeyer III đã đăng trên
Nature, một trong những tạp chí khoa
học uy tín nhất thế giới, trường
hợp về một phụ nữ trẻ
tên Elizabeth, sinh viên Harvard,
người có thể thực hiện một kỳ tích đáng kinh ngạc. Stromeyer cho mắt phải Elizabeth
xem tấm hình có hàng chục ngàn dấu chấm ngẫu nhiên, và ngày hôm sau, cho mắt
trái cô ấy xem một hình khác cũng gồm những dấu chấm. Kinh ngạc thay, Elizabeth
có thể ghép hai hình ảnh này trong tâm trí, như thể chúng là một trong những
“ảnh ảo” nhìn ra từ tấm hình toàn những chấm ngẫu nhiên, một trò chơi nổi lên thành
mốt vào những
năm 1990. Khi ghép chúng
lại, cô sinh
viên cho biết mình thấy một hình duy nhất - hình ảnh mới do hai hình cũ chồng lên nhau.
Dường như Elizabeth là bằng chứng thuyết phục cho thấy trí nhớ hình ảnh có khả năng tồn tại.
Nhưng rồi, bất ngờ và kịch tính
như phim, Stromeyer kết hôn với cô, và cô không
bao giờ là đối tượng của thí nghiệm
nào nữa.
Năm 1979, một nhà nghiên cứu khác là John Merritt
đã quyết định xác thực những nhận định của Stromeyer. Ông đăng một bài trắc
nghiệm trí nhớ hình ảnh trên các báo và tạp chí toàn quốc. Nó gồm hai tấm hình với những
điểm chấm ngẫu nhiên. Merritt
hy vọng sẽ xuất hiện người có khả năng tương tự
như Elizabeth và chứng minh rằng trường hợp của cô không phải là độc nhất. Ông
ước tính có gần một triệu người cố thử làm trắc nghiệm này. Trong số đó, ba mươi người có câu trả lời đúng, và mười lăm người đồng ý để Merritt nghiên cứu. Nhưng khi làm trắc
nghiệm dưới con mắt quan sát trực tiếp của các nhà khoa học, không ai đạt thành công như Elizabeth đã làm.
Có quá nhiều
tình tiết bất ổn xung quanh trường
hợp Elizabeth - cuộc hôn nhân giữa đối
tượng và nhà khoa học, thiếu các thí nghiệm
kiểm chứng thêm, không thể tìm ra ai khác có
khả năng như cô - từ đó các nhà khoa học kết luận
rằng những phát
hiện của Stromeyer có gì đó mờ ám. Ông ta phản
bác. “Chúng tôi toàn toàn
chắc chắn về các dữ liệu của mình,”
ông ta nói với tôi qua điện
thoại. Song ông thừa nhận,
nghiên cứu của ông với
chỉ một đối tượng nữ “không phải là bằng chứng vững chắc chứng
tỏ còn những người khác cũng có trí
nhớ hình ảnh.”
Từ thuở nhỏ, tôi đã say mê những câu chuyện về
những người Do Thái chính thống cực đoan thuộc toàn bộ 5.422
trang kinh sách Talmud Babylon,
và khi bạn lật giở bất kỳ trang
nào trong sáu mươi ba cuốn kinh sách, họ có thể kể ra những từ nào có trên trang nào. Tôi luôn cho rằng những câu chuyện như vậy
chỉ là một dạng truyền thuyết. Nhưng hóa ra, cũng như Atom Cường tráng, những
chuyên gia kinh Talmud được xem là các vị thánh nhân Do Thái. Năm 1917, nhà tâm
lý học George Stratton viết một nghiên cứu trên Tạp chí Tâm lý học về một nhóm học giả kinh Talmud người Ba Lan, gọi là Shass Pollak
(theo nghĩa đen, “Gậy Talmud”), họ nổi tiếng vì trí nhớ chính xác. Nhưng
như ông viết trong phần nhận định, dù nhóm Shass Pollak có trí nhớ ấn tượng như
vậy nhưng “không ai nổi trội trong thê giới học giả.” Không phải trí nhớ hình
ảnh giúp nhóm Shass Pollak, mà chính là sự chuyên tâm học tập của họ. Nếu một người bình thường quyết tâm dành cả đời mình
để ghi nhớ 5.422 trang chữ, thì cuối cùng anh ta cũng sẽ đạt thành quả khá tốt.
Nên nếu trí nhớ hình ảnh chỉ là một truyền thuyết,
vậy nhà báo S người Nga thì sao? Nếu
anh ta không chụp các hình ảnh lại trong đầu, thì
chính xác anh ta đã làm gì?
Trí nhớ kỳ lạ của S không chỉ là một đặc điểm dị thường duy nhất về bộ não của anh. Anh
cũng bị một dạng rối loạn giác quan hiếm gặp, gọi là chứng giác quan liên đới
(synesthesia), nó khiến các giác quan của anh liên kết lại với nhau một cách kỳ quặc. Mỗi
âm thanh S nghe đều mang một màu sắc riêng, hình thù riêng, và đôi khi mùi vị
riêng, và nó kích thích “một hỗn họp cảm giác phức tạp.” Có những từ “trắng và
mượt” những từ khác thì “có màu cam và sắc như mũi tên.” Giọng của đồng nghiệp
Luria, nhà tâm lý học nổi tiếng Lev Vygotsky, là “màu vàng dễ vỡ.” Giọng của nhà nhiếp ảnh Sergei Eisenstein
giống như “một ngọn lửa với những xơ sợi thời ra.”
Những từ ngữ làm vụt lên trong
S sự tưởng tượng tâm trí. Khi bạn hay tôi nghe
ai đó nhắc đến từ “con voi” hay đọc từ này trên một trang
sách, chúng ta hiểu ngay rằng đó là sự ám
chỉ đến một loài vật to lớn, màu xám có chân lớn và cái vòi quá cỡ. Nhưng trong hầu hết các trường hợp, chúng ta không thực sự
dựng lên hình ảnh của một con voi trong đầu. Nếu muốn thì chúng
ta vẫn có thể gọi lên được,
nhưng cần phải gắng một chút, và trong
quá trình trò chuyện hay đọc bình thường, việc này không
cần thiết. Đó chính là điều S làm
với mỗi từ anh nghe
được, một cách
tự động và ngay tức
thì. Anh không
thể cưỡng lại. “Khi tôi nghe từ xanh lục,
thì một chậu
hoa màu xanh
xuất hiện; với
từ đỏ, thì
tôi thấy một người đàn ông mặc sơ mi đỏ đang tiến lại gần tôi; với màu xanh dương,
có nghĩa là một
hình ảnh ai đó đang
vẫy lá cờ màu xanh
từ một ô cửa sổ,”
anh bảo Luria.
Bởi mỗi từ đều gợi đến
hình ảnh tổng hợp và đôi khi kèm theo cả mùi và vị nữa - S như sống trong cơn ác mộng,
tỉnh thức đó mà vẫn bị tách
khỏi thực tại. Khi thế giới mở ra trước
mắt anh, một thế
giới khác của hình ảnh cũng nở rộ trong
đầu anh.
Những hình ảnh này đã “chiếm cứ” tâm trí S mạnh đến
nỗi nhiều lúc không thể phân biệt chúng với thực tại. “Quả thật, khó mà nói đối
với anh ta cái gì là thực hơn: thế giới tưởng tượng anh ta sống,
hay thế giới thực tại mà anh ta chỉ là người
khách vãng lai,”
Luria viết, S chỉ cần tưởng
tượng mình đang chạy theo một con tàu đã đủ khiến nhịp tim nhanh hơn, hay hình dung đưa bàn tay mình vào lò vi sóng nóng bỏng là nhiệt độ cơ thể tăng lên. Anh
bảo thậm chí có thể giảm cơn đau bằng những hình ảnh: “Ví dụ, tôi đi khám nha
sĩ... tôi ngồi đó và khi cơn đau bắt đầu, tôi cảm thấy nó... một sợi dây nhỏ,
màu đỏ cam. Tôi bực mình vì biết nếu tiếp tục sợi dây sẽ to dần ra cho đến khi
chuyển thành một khối đặc... Nên tôi cắt sợi dây, làm nó nhỏ dần nhỏ dần, cho
đến khi chỉ là một điểm bé xíu. Rồi cơn đau biến mất.”
Và với S, thậm chí những con số cũng có cá tính
riêng: “Cứ lấy số 1 làm ví dụ. Đó là một người
đàn ông kiêu hãnh, vạm vỡ; số 2 là một người phụ nữ can đảm; số 3 là một người u sầu (tại sao, tôi chẳng biết); số 6, một người đàn ông có bàn chân sưng tấy; số 7, một người đàn ông có râu quai nón; số 8, một phụ nữ đậm người. Với số 87, điều tôi nhìn thấy là một phụ nữ đẫy đà và một người đàn ông
đang vân vê râu.” Chứng giác quan liên đới làm các con số trở nên sống động đối
với S, nhưng mặt khác anh ta lại gặp khó khăn trong việc hiểu các khái niệm
trừu tượng và ẩn dụ. “Tôi chỉ có thể hiểu được những gì tôi hình dung ra,” anh
giải thích. Những từ như “bất tận” và “không gì cả” nằm ngoài tầm hiểu biết của
anh. “Lấy ví dụ từ điều gì đó. Với tôi, nó giống như một đám mây dày có màu khói. Khi tôi
nghe từ không gì cả, tôi cũng nhìn thấy một đám mây, nhưng mỏng hơn, hoàn toàn
trong suốt. Và khi tôi cố nắm lấy một phần nhỏ của không gì cả này, thì tôi bắt được phần nhỏ bé
nhất của không gì cả.” S không thể tư duy ẩn dụ hay trừu tượng. Một cụm từ như
“cân nhắc từ ngữ” sẽ gợi hình ảnh những cái cân, chứ không phải sự thận trọng. Thơ ca thì anh
hầu như không đọc nổi, trừ phi nó hoàn toàn nghĩa đen. Cả những câu chuyện giản
đơn cũng thành khó hiểu, bởi anh sa lầy khi không cưỡng được mà cố hình ảnh hóa từng từ
hoặc bắt bộ não liên tưởng đến những hình ảnh, ký
ức khác có liên quan.
Tất cả những
ký ức của chúng ta, giống như của S, bị ràng
buộc vào nhau
theo một mạng lưới những liên kết. Đây không đơn thuần một ẩn dụ, mà là một phản ánh về cấu trúc vật chất
của bộ não. Cái khối
chừng l,36kg này nằm cân đối trên cột sống,
được hình thành
từ đâu khoảng 100 tỉ tế bào thần kinh, mỗi tế bào có thể tạo từ năm đến mười ngàn kết nối với
các tế bào
khác. Một ký ức, ở cấp độ sinh lý học cơ bản nhất,
là một tổng
hòa những kết nối
giữa các tế bào thần kinh. Mỗi cảm giác mà chúng
ta nhớ, mỗi suy nghĩ mà chúng
ta nghĩ, đều làm biến chuyển
bộ não bằng cách thay
đổi những kết nối trong
hệ thống mênh mông kia. Lúc bạn đọc đến cuối câu này, bộ não của bạn đang thay đổi về mặt vật chất.
Nếu nghĩ về từ “cà phê” khiến bạn nghĩ đến màu đen,
bữa ăn sáng và vị đắng, đó là một chức năng của một tầng các xung động điện tử
nhảy nhót quanh tuyến đường mòn có thực trong bộ não, là thứ liên kết một nhóm tế bào thần kinh mã hóa khái niệm cà phê với các
tế bào chứa những khái niệm màu đen, ăn sáng, và vị đắng. Các nhà khoa học chỉ biết được đến đó. Nhưng
chính xác làm thế nào một nhóm các tế bào có thể “chứa”
một ký ức thì vẫn là một câu hỏi hóc búa nhất của ngành khoa học thần kinh.
Dù có những
tiến bộ trong những thập niên gần đây, vẫn không ai thực sự nhìn thấy một
ký ức trong não người.
Những tiến bộ về công nghệ hình ảnh cho phép các nhà khoa học
thần kinh hiểu được hình thế cơ bản của bộ não, và nghiên
cứu tế bào thần kinh đã cho chúng ta hình dung rõ ràng về điều xảy ra trong và giữa các tế bào thần kinh, nhưng đến nay
khoa học vẫn gần như không có lấy một manh mối gì về hệ thống
mạch điện trong
vỏ não, lớp vỏ nhăn ngoài
bộ não cho phép chúng
ta hoạch định tương lai,
làm phép chia
trên giấy, làm thơ và giữ hầu hết những ký ức của chúng ta. Khi nói đến hiểu biết về bộ não, chúng ta giống như kẻ ngồi trên máy bay nhìn xuống thành phố. Chúng ta có thể nói đâu
là khu công nghiệp, đâu là khu dân cư, đâu là sân bay, đâu là các mạch giao thông
chính, nơi bắt đầu
ngoại ô. Chúng
ta cũng biết,
rất chi tiết,
những đơn vị riêng lẻ của thành
phố là gì (các công dân, và trong ẩn dụ này là tế bào thần kinh) và trông như thế nào. Nhưng về
đại thể, chúng ta không
thể biết mọi người đi đâu khi họ đói, người ta làm gì để sống,
hay hành trình hoạt
động của một người cụ thể là như thế nào. Có thể hiểu được bộ não ở góc
cận cảnh và từ xa. Còn điều
nằm ở giữa đó - vấn đề ý nghĩ
và trí nhớ, ngôn ngữ của bộ não - vẫn
là một bí ẩn sâu
kín.
Tuy nhiên, có một điều
rõ ràng: bản
chất liên kết phi tuyến
tính của bộ não khiến
chúng ta không thể tìm kiếm các ký ức một cách có trật tự. Một ký ức chỉ nhảy trực tiếp vào nhận
thức nếu nó được gọi ra bằng ý nghĩ và nhận thức khác - một nốt ngẫu nhiên trong
mạng lưới liên kết gần như vô tận. Nên khi một ký ức mất đi hay khi một cái tên “đã tới lưỡi mà không gọi ra nổi”, thì việc săn tìm nó sẽ gây nản lòng và thường là vô ích. Chúng ta phải
mò mẫm trong bóng tối,
với đèn pin trong tay,
để tìm ra đầu mối có thể
dẫn chúng ta quay
lại mẩu thông tin đang tìm kiếm
- Tên cô ấy bất đầu bằng
chữ L... Cô ấy là họa sĩ...
Tôi gặp cô ấy tại bữa
tiệc đó cách
đây vài năm
- cho đến khi một
trong những ký ức kia
gợi ra trong đầu ký ức ta đang tìm.
À, đúng rồi,
tên cô ấy là Lisa!
Vì ký ức của chúng ta không theo
một logic tuyến tính
nào, chúng ta không thể tìm kiếm
chúng theo thứ tự liên
tục.
Nhưng S lại có thể. Ký ức của S là một cơ chế có trật tự, như một cuốn sổ danh thiếp. Mỗi phần
thông tin anh nhớ được gán cho một địa chỉ trong bộ não.
Giả sử tôi đề nghị bạn ghi nhớ danh sách những từ
sau đây: bia, xe tải, trường học, giày, kịch,
rác, dưa hấu. Bạn hẳn sẽ có thể nhớ tất cả bảy từ đó, nhưng chưa chắc bạn nhớ được
chúng theo trật tự. S lại không như vậy. Với S, mẩu thông tin đầu tiên trong danh sách
luôn, và không
bao giờ sai,
được gắn chặt
với mẩu thông
tin thứ hai,
và nhất định
theo sau đó là mẩu thông
tin thứ ba. Dù anh ta có học thuộc
Thần Khúc của
Dante hay những
công thức toán học
thì ký ức của anh
ta luôn được
lưu theo những
chuỗi tuyến tính.
Đó là lý do anh ta có thể
đọc lại những
bài thơ một cách dễ dàng theo
chiều xuôi hay
ngược.
S tổ chức các ký ức của mình rất chặt chẽ, bằng cách lập sơ đồ chúng theo các cấu trúc và
vị trí mà anh ta đã biết rất rõ. “Khi S đọc một chuỗi dài các từ, mỗi từ sẽ gợi
ra một hình ảnh. Và do chuỗi này khá dài, anh ta phải tìm cách phân bổ những
hình ảnh thành một chuỗi hoặc hàng trong đầu,” Luria viết.
“Thường thì... anh ta sẽ “phân bổ” chúng dọc theo
một con lộ hay tuyến đường anh ta đã hình dung ra trong tâm trí.”
Khi anh ta muốn đưa điều gì vào bộ nhớ, S chỉ cần làm một chuyến đi tưởng tượng
dọc phố Gorky ở Moscow, hoặc
nhà anh ta ở Torzhok, hay một nơi khác anh
ta từng đến,
và đặt mỗi hình ảnh lại một điểm khác nhau trên đường đi. Một hình ảnh có thể được đặt ở của một ngôi
nhà, bức ảnh
khác sẽ gần
cột đèn, một
bức khác ở trên cọc
rào, bức khác
ở trong một khu
vườn, bức nữa ở trên khung của sổ. Tất cả những điều này xảy ra trong đầu anh ta một cách dễ dàng như thể anh ta đang đặt những vật có thực dọc theo một con đường có
thực. Nếu được đề nghị
ghi nhớ những
chữ đó - bia, xe tải, trường
học, giày, kịch,
rác, và dưa hấu - anh ta sẽ gợi ra hình ảnh liên quan đến mỗi từ, và rải chúng dọc theo một trong các con đường trong
tâm trí.
Khi S muốn nhớ lại thông tin vào một ngày, tháng,
năm, hoặc một thập niên sau, anh ta chỉ cần đi ngược lại con đường nơi anh ta đã lưu giữ những ký ức đó, và anh ta sẽ thấy mỗi hình ảnh ngay tại vị trí anh ta đặt
chúng lúc ban đầu. Khi S quên điều gì đó, mà điều này rất hiếm hoi, “sự bỏ qua
này... không tổn hại trí nhớ mà thực ra là tổn hại nhận thức,” Luria viết. Ví dụ như, S quên từ “bút chì” trong danh sách dài những từ anh ta lẽ ra đã nhớ. Anh ta mô tả làm sao lại quên như thế
này: “Tôi đặt tấm hình bút chì gần một hàng rào... hàng rào ở dưới phố, ông
biết đấy. Chuyện là tấm hình đó lại bị lồng vào hình ảnh hàng rào, và tôi bước
qua mà không nhận ra điều đó.” Một trường hợp khác, anh ta quên từ “trứng.”
“Tôi đã đặt nó trên một bức tường trắng và nó bị
lẫn vào nền tường,” anh ta giải thích.
Trí nhớ của S như một con quái vật nuốt tất cả mọi thứ được nhồi vào không hề phân biệt, và
không biết nhả ra những mẩu thông tin tầm thường chẳng đáng giữ lại. Thách thức lớn nhất S phải đối mặt là học được điều
Luria gọi là “thuật lãng quên.” Những hình ảnh phong phú mà mỗi cảm xúc tạo ra
bám dai dẳng lại trong đầu một cách khó chịu. Anh ta đã thử các kỹ thuật khác
nhau để xóa chúng khỏi đầu mình. Anh ta thử viết lên giấy, với hy vọng sẽ không
còn cảm thấy cần nhớ chúng nữa. Khi điều đó không tác dụng, anh ta thử đốt những mẩu giấy đi, nhưng anh ta vẫn có thể thấy những con số lởn vởn trong đám tro tàn. Cuối cùng, anh ta chợt đốn
ngộ. Vào một đêm, khi cảm thấy khó chịu vì một biểu chữ số trước đó đã nhớ, anh ta tìm ra bí quyết lãng quên. Anh ta chỉ cần thuyết phục mình
rằng thông tin anh ta muốn quên là vô nghĩa. “Nếu tôi không muốn biểu đồ đó
xuất hiện, nó sẽ không xuất hiện,”
anh ta kêu lên. “Tôi chỉ cần nhận ra điều này là được!”
Có người hẳn sẽ cho
rằng với bộ nhớ hấp thụ như vậy S sẽ trở thành một nhà báo
xuất sắc. Tôi tưởng tượng nếu tôi có thể nhớ mà không
cần ghi chép lại, và cần là có sẵn trên tay mọi
sự việc tôi đã tiêu hóa, thì tôi làm công việc của mình tốt hơn rất nhiều.
Tôi sẽ giỏi hơn trong tất cả mọi việc.
Nhưng về mặt nghề nghiệp S lại là một thất bại. Nghiệp
báo của anh ta chẳng kéo dài được
lâu và anh không bao giờ có thể giữ một công việc ổn định. Theo nhận định của Luria, anh
“như một người không bến neo đậu, sống với kỳ vọng rằng bất kỳ lúc nào cũng sẽ một điều
đặc biệt tốt đẹp xảy đến với mình.” Cuối cùng, tình trạng của anh khiến anh
chẳng làm được việc gì ngoài một diễn viên sân khấu, một thứ của hiếm trên sàn
kịch như như hình tượng chuyên gia trí nhớ trong phim The 39 Steps của Alfred Hitchcock. Người có trí nhớ
tốt nhất thế giới đã ghi nhớ quá nhiều.
Trong cuốn truyện
ngắn của mình
Funes, kẻ ghi nhớ; Jorge
Luis Borges mô tả một phiên
bản tưởng tượng của S, một người
có trí nhớ bất hoại
và đồng thời
là người mắc khuyết tật không có khả năng quên. Anh ta không thể phân biệt giữa điều tầm thường và điều quan trọng. Nhân vật Funes của Borges
không biết sắp xếp ưu tiên, không
thể khái quát hóa.
Anh ta “gần như không
thể có ý nghĩ tổng
quát, trừu tượng.”
Cũng giống S, trí nhớ của anh ta
quá tốt. Có lẽ, như Borges kết luận trong
truyện của mình,
rằng lãng quên,
chứ không phải ghi nhớ, mới là bản chất làm nên con người. Để hiểu thế giới, chúng
ta phải gạn lọc nó.” Borges
viết, “Suy nghĩ
chính là lãng
quên.”
Dù trí nhớ khổng lồ của S đối với những sự kiện có
vẻ thật phi phàm, thì thực ra anh ta đang chỉ đang tận dụng trí nhớ không gian
rất phát triển mà tất cả chúng ta đều sở hữu. Nếu bạn đến thăm London, bạn
thỉnh thoảng sẽ bắt gặp trên đường những cậu thanh niên (và ít thường xuyên hơn
là phụ nữ) trên những chiếc xe máy tay ga, thoắt ẩn thoắt hiện trên luồng giao
thông trong khi vẫn nhìn bản đồ gắn vào tay lái. Những tay lái sốt sắng học
hành này đang rèn luyện để trở thành tài xế taxi London. Trước khi được nhận
chứng chỉ của sở Giao thông
Công chính, các tài-xế-đang-rèn-luyện này phải mất từ hai đến bốn năm ghi nhớ các địa điểm và cấu trúc
giao thông của 25.000 tuyến phố trong thành phố rộng lớn và dễ lạc này cũng như
vị trí của 1.400 điểm tham quan. Cuộc tập huấn của họ kết thúc với một cuộc thi kinh hoàng có tên “Hiểu biết,”
trong đó họ không những phải chỉ ra con đường ngắn nhất giữa hai điểm
trong khu vực đô thị, mà còn nêu tên những địa điểm đáng chú ý dọc tuyến đường đó. Cứ mười người thì chừng ba người nhận được chúng chỉ “Hiểu biết.”
Năm 2000, Eleanor
Maguire, nhà khoa học thần kinh ở Đại học London, muốn tìm hiểu hệ
quả, nếu có, của việc lái xe quanh mê cung thành
phố London đối với bộ não các tài xế taxi.
Khi bà đưa mười sáu tài xế vào phòng
thí nghiệm và kiểm tra bộ não của họ bằng máy chụp
MRI (Cộng hưởng
từ), bà phát
hiện ra một khác biệt
quan trọng và ngạc nhiên.
Hồi hải mã dưới
bên phải, phần
não bộ liên quan đến định vị không gian,
lớn hơn 7 phần trăm so
với người bình
thường - một
khác biệt nhỏ
nhưng rất có ý nghĩa.
Maguire kết luận
rằng quá trình tìm đường quanh
London đã thay đổi cấu trúc vật lý của bộ não. Tài xế lái xe càng
làm việc lâu năm trên
đường, ảnh hưởng
lại càng rõ ràng hơn.
Não là một cơ quan có thể biến đổi, trong những giới hạn nhất định nó có thể tự tổ chức lại
và thích nghi với những dạng mới của cảm xúc đầu vào, một hiện tượng được gọi
là tính dẻo của bộ não (neuroplasticity). Từ lâu người ta đã nghĩ rằng, não
người lớn không thể sản xuất tế bào mới - rằng quá trình
học có làm các khớp thần kinh tự tổ chức lại và những mối liên kết mới giữa các tế bào
thần kinh hình thành, nhưng cấu trúc giải phẫu cơ bản của bộ não vẫn ít nhiều
có tính ổn định. Nghiên cứu của Maguire cho thấy quan điểm từ xưa đó không chính xác.
Sau nghiên cứu mang tính đột phá về tài xế taxi
London, Maguire chuyển hướng nghiên cứu sang các vận động viên trí óc. Bà lập nhóm cùng Elizabeth Valentine và John Wilding,
các tác giả của chuyên khảo học thuật Trí nhớ siêu phàm (SuperiorMemory), để
nghiên cứu mười cá nhân đạt thành tích cao nhất ở Giải Vô địch Thế giới Trí
nhớ. Họ muốn tìm
xem bộ não
của những chuyên
gia trí nhớ - giống
như tài xế London - có khác
biệt về cấu trúc so với người
thường chúng ta không hay chẳng qua họ biết cách sử dụng tốt hơn khả năng
ghi nhớ mà tất cả chúng ta sở hữu.
Các nhà nghiên
cứu cho nhóm
các vận động viên trí óc và nhóm đối chứng vào máy chụp MRI
và đề nghị họ ghi nhớ những
con số có ba chữ số, những
chân dung đen trắng và hình
ảnh bông tuyết phóng to, trong suốt
quá trình đó,
bộ não của
họ được chụp
lại. Maguire và nhóm
của bà tưởng rằng có thể phát hiện ra sự khác biệt về mặt giải phẫu học trong bộ não
của những nhà vô địch
trí nhớ, bằng
chứng cho thấy
bộ não của họ tự tổ chức
lại trong quá trình
ghi nhớ nhiều
thông tin như
vậy. Song khi
các nhà nghiên
cứu xem lại
những dữ liệu hình
ảnh: hai nhóm
không hề có một khác
biệt đáng kể nào về cấu trúc.
Bộ não của các
vận động viên trí óc dường như không khác gì não của nhóm đối chứng.
Hơn nữa, trong từng thí nghiệm về khả năng nhận thức tổng quát,
điểm số của các vận động viên trí óc nằm
trong ngưỡng thông thường. Các nhà vô địch trí nhớ không hề thông
minh hơn, và họ
không có bộ não đặc biệt. Khi Ed và Lukas bảo tôi họ là người bình thường,
với khả năng trí nhớ bình thường, ấy không hoàn toàn vì họ khiêm
tốn.
Nhưng có một sự khác biệt rõ rệt giữa bộ não của các vận động viên trí óc và nhóm đối chứng: khi các nhà nghiên cứu xem xét phần nào của bộ não sáng lên khi các vận động
viên trí óc ghi nhớ, họ thấy rằng chúng
kích hoạt “kết cấu bảng mạch” hoàn toàn khác nhau. Theo hình ảnh MRI chức năng, các vùng của bộ não kém hoạt động ở nhóm đối chứng dường như lại hoạt động
quá mức ở nhóm vận động viên
trí óc.
Ngạc nhiên thay, khi vận động viên trí óc học thông
tin mới, họ sử dụng nhiều vùng ở bộ não có liên quan đến hai nhiệm
vụ cơ bản: trí nhớ hình ảnh và định vị không
gian, gồm cả vùng hồi hải mã phía sau bên phải vốn
bị phình to trong bộ não của các tài xế London do tìm đường hàng ngày. Ban đầu,
điều này dường như chẳng có ý nghĩa gì. Tại sao các vận động viên trí óc lại dựng lên những hình ảnh trong đầu, khi họ cố ghi nhớ những con số có
ba chữ số? Tại sao họ lại định vị không gian như tài xế London
khi lẽ ra họ phải nhớ những hình bông tuyết?
Maguire và nhóm của bà đề nghị các vận động viên trí óc mô tả chính xác điều diễn ra
trong đầu khi họ ghi nhớ. Các vận động viên trí óc thuật lại một chuỗi sự việc nghe gần
như y hệt điều S kể đã xảy ra trong đầu anh ta. Dù không
phải là người
có chứng giác
quan liên đói bẩm sinh như S, nhưng
các vận động viên trí óc cho biết họ chuyển đổi một cách có
ý thức những thông tin cần ghi nhớ thành
các hình ảnh rồi phân bổ những
hình ảnh đó dọc
theo một hành trình không gian quen thuộc. Không như S, họ không làm điều này
một cách tự động hay nhờ tài năng bẩm sinh từ bé. Cách thức hoạt động khác thường của bộ
não họ, như hình cộng hưởng từ chức năng chỉ ra, là kết quả rèn luyện và thực hành. Những vận động viên
trí óc tự học để có thể ghi nhớ được như S.
Ed và anh bạn ít lời Lukas,
và cái dự án nghe thật “khủng”
đẩy trí nhớ
của họ đến mức cực hạn
làm tôi thích
thú. Và họ dường như
cũng quan tâm đến tôi,
một nhà báo cùng độ tuổi,
người có thể sẽ chia sẻ câu chuyện của họ trên một vài tạp chí họ chưa bao giờ nghe đến, vả lại biết đâu đây là bước khỏi đầu
con đường làm nhân vật nổi tiếng của họ. Sau bài giảng của Ed ở trường trung học, anh ta mời tôi cùng anh ta và Lukas đến một quán bar gần
đó, nơi chúng
tôi gặp một
nhà làm phim
nhiều khát vọng
và là bạn cùng phòng
với Ed ở trường
nội trú, người
này đã vác máy quay video 8-mm đi cùng họ khắp New York,
ghi lại mỗi cuộc phiêu lưu kỳ khôi
của cặp đôi này, cả nỗ lực của Lukas
nhằm ghi nhớ một cỗ bài trong năm mươi ba giây đi thang
máy lên đài quan sát trên Tòa nhà Empire State. (“Chúng tôi muốn xem liệu thang
máy nhanh nhất thế giới
có nhanh hơn nhà vô địch nhớ
bài người Áo không,” Ed làm bộ nghiêm trọng. “Kết
quả là không.”)
Sau vài ly, Ed say sưa kéo tôi vào sâu hơn cái thế giới mờ mịt những bí mật của các vận
động viên trí óc. Anh ta đề nghị cho tôi xem những nghi lễ của KL7, một “hội
kín của những người ghi nhớ” mà anh ta cùng Lukas
sáng lập ở giải vô địch Kuala
Lumpur năm 2003, thế thì hội này hiển nhiên là không bí mật đến như vậy.
“KL, là Kuala Lumpur hả?” tôi hỏi.
“Không, KL là Knights of Learning (Những hiệp sĩ hiểu biết),
và bảy là bởi các thành viên ban đầu của hội gồm bảy người,”
Lukas giải thích, trong khi nhấp bia miễn phí (anh ta thắng cược cô phục vụ ba
cốc bia nhờ trò ghi nhớ cỗ bài). “Đây là một hội quốc tế nhằm phát triển giáo dục.”
“Làm thành viên của hội là một danh dự hết sức đặc
biệt,” Ed thêm vào.
Dù tài sản của hội chỉ hơn hơn một ngàn đô la nằm
trong tài khoản ngân hàng của Lukas và ngày càng còm cõi đi, Ed thừa nhận KL7 chưa bao giờ thực sự làm được gì nhiều, ngoại
trừ đi uống với nhau một chầu vào bữa tối khi kết thúc các giải đấu. Khi tôi gặng hỏi thêm thông tin, Ed biểu diễn nghi lễ được coi trọng
duy nhất trong
hội.
“Cứ gọi nó là nghi lễ ma quỷ cũng được,” anh ta nói, rồi đề nghị Jonny,
nhà làm phim,
đếm thời gian. “Chúng ta có đúng năm phút để uống hai ly bia, hôn ba phụ
nữ, và ghi nhớ bốn mươi chín chữ số ngẫu nhiên. Tại sao lại bốn chín chữ số? Vì nó là bảy bình phương.”
“Tôi khá là bất ngờ,
hóa ra vụ này cũng
khó phết,” Lukas
nói. Anh ta đang mặc
một bộ vét màu
xám bóng, đeo cái cà vạt còn óng ánh hơn, và không mấy khó khăn thuyết phục cô
phục vụ, người mà anh
ta vừa thắng
cược, cho anh
ta ba nụ hôn hờ lên má.
“Chặt chẽ ra thì thế là chưa đạt chuẩn,
nhưng thôi vẫn tính,” Ed tuyên bố, bia chảy thành
dòng xuống cằm anh ta. Anh ta lôi trong túi ra một trang
giấy in sẵn những chữ số và xé
nó ra thành nhiều mảnh. Ngón tay anh ta vội vã khua nhặt các mẩu vụn cho đến khi gom
được bốn mươi chín chữ số, lúc này anh ta đứng
lên và lắp bắp, “Coi
như xong!” rồi khập
khễnh bước đến dãy bàn gần đó; anh ta cố giải thích hoàn cảnh của mình cho ba phụ nữ
tóc ánh bạc, họ dường
như đã quá độ tuổi
để vào vui chơi ở quán bar
ầm ĩ này. Thấy thì giờ
sắp hết, họ chưa kịp đáp ứng lời khẩn cầu của Ed thì anh chàng
đã nghiêng mình qua bàn và
đặt môi lên những gò má hóp đỏ ửng kia.
Ed quay lại vẻ đắc thắng, vung nắm tay lên và đập tay ăn mừng với tất cả chúng tôi. Anh gọi
một chầu bia nữa cho cả bàn.
Tôi không rõ ấn tượng
của mình về Ed là thế nào.
Anh ta, như tôi dần
phát hiện ra, là một nhà
mỹ học, theo đúng cái nghĩa của Oscar Wilde.
Hơn ai hết mà tôi từng gặp, hình như anh
ta dự vào cuộc đời như thể đó là một nghệ thuật, và để thực hành một sự thảnh thơi
một cách cẩn trọng, có chủ ý. Cảm thức của anh ta về điều được coi là xứng đáng dường
như có rất ít điểm chung với cảm thức truyền thống
về điều hữu ích, và nếu có một câu châm
ngôn chi phối cuộc đời anh ta, thì ấy chính là lời kêu gọi tối cao nhằm làm phong phú thêm những cuộc phiêu lưu ở mọi điểm rẽ cuộc đời. Anh ta là một người biết hưởng
thụ thực sự, nhưng mặt khác anh rất khắt khe và nghiêm túc khi làm luận án tiến sĩ về đề tài
mối quan hệ giữa trí nhớ và nhận thức,
chứng tỏ anh ta có chủ định hoàn thành
những điều to tát.
Anh ta không
đẹp trai theo
nghĩa truyền thống,
nhưng vào đêm
muộn hôm đó tôi
quan sát anh ta tiếp cận một phụ nữ trên phố, hỏi xin một điếu thuốc, và vài phút sau
anh ta quay lại với số điện thoại cô gái. Anh kể với tôi “mẹo vặt quán bar thông thường” ấy là cứ lượn lờ quanh “đối tượng”,
mời cô nàng đưa ra một “dãy số dài tùy ý,” rồi hứa sẽ mua cho
nàng một chai sâm panh nếu anh ta nhớ được chúng.
Suốt buổi tối, Ed thết tôi hết chuyện này đến
chuyện khác về những cuộc phiêu lưu của anh ta và những rủi ro nhớ đời. Có lần anh ta chân trần lao người qua của sổ một quán bar
ở New Zealand để ngăn một kẻ phá rối. Rồi lần anh ta chui vào bữa tiệc của một siêu mẫu ở
London (“Lần đó thì dễ hơn, tôi ngồi trên xe đẩy, và tôi có thể diễn trò đi xe một bánh siêu
đẳng”). Lần khác anh ta xông vào một bữa tiệc tại Đại sứ quán Anh ở Paris (“Tôi để ý thấy ngài
đại sứ theo dấu đôi giày bẩn thỉu của tôi khắp phòng.”) Và làm sao anh ta có thể quên
mười hai tiếng đồng hồ đi xin tiền mua vé xe bus ở trung tâm Los Angeles?
Lúc ấy, tôi tỏ vẻ hoài nghi về những câu chuyện
huyền thoại tự thêu dệt này, nhưng đó là bởi tôi còn chưa biết Ed đủ nhiều để
nhận ra ràng anh ta đã nói giảm khá nhiều. Tối hôm đó, sau vài ly nữa, tôi mới nhận ra mình đã dành phần lớn thời gian trong ngày cùng Ed và
Lukas và không ai gọi tên tôi lấy một lần, dù tôi chắc tôi đã nói khi tự giới thiệu lúc đầu. Ed nhắc đến tôi trước mặt cô phục vụ như
là “anh bạn nhà báo của chúng ta,” và Lukas thì chưa hề nhắc đến tôi. Những
cách thoái thác tôi quá rõ. Nhưng trước đó Ed đã dám chắc với tôi rằng anh ta có thể ghi nhớ tên và số điện thoại
của mọi cô gái mà anh ta đã gặp. Tôi
nghĩ điều đó nghe như một kỹ năng gây ấn tượng giúp người ta tiến xa trong cuộc
đời. Người ta bảo Bill Clinton
chưa bao giờ quên tên ai, và hãy thử nhìn xem ông ấy tiến xa tới
đâu. Nhưng bấy giờ tôi chợt nghĩ rằng từ “có thể” của Ed có phần hơi mập mờ; cũng giống
như nói “Anh ta có thể đếm ngược từ một triệu trở xuống” - à vâng, nếu anh ta
thật sự muốn. Tôi đã hỏi anh ta có nhớ tên tôi không.
“Tất nhiên.
Là Josh.” “Họ của tôi?”
“Khỉ thật. Anh đã bảo tôi rồi à?”
“Đúng vậy,
Foer. Josh Foer.
Rốt cuộc thì anh cũng
là người thường.” “À, vâng -”
“Tôi cứ nghĩ anh có cái kỹ thuật thú vị lắm để nhớ
tên mọi người.”
“Lý thuyết là vậy. Nhưng tác
dụng của nó tỉ lệ nghịch với số lượng cồn tôi nốc vào.”
Rồi Ed giải thích cho tôi cách thức để một cái tên dễ nhớ hơn, và anh ta đã sử dụng trong
cuộc thi để ghi nhớ họ và tên của những người trong chín mươi chín bức ảnh chân dung trong vòng thi tên-và-khuôn-mặt. Đó là một kỹ thuật mà anh ta hứa hẹn tôi có thể dùng
để nhớ tên của mọi người ở các bữa tiệc hay cuộc họp. “Mẹo ở đây đơn giản đến mức giả dối,” anh ta nói tỉnh khô.
“Đó là luôn liên hệ âm tên của một người với cái gì đó anh có thể tưởng tượng ra một
cách rõ ràng.
Đó là việc tạo ra một hình
ảnh sinh động
trong đầu giúp cột chặt hình ảnh
về khuôn mặt
một người với
hình ảnh liên
hệ đến tên
người đó. Khi
anh cần tìm lại và nhớ tên người đó vào lúc nào đó sau này, thì hình ảnh anh tạo ra sẽ nhảy
ngay vào đầu... Nên, ừm, anh bảo
tên anh là Josh Foer
phải không nào?”
Anh ta nhếch
lông mày và vuốt cằm đầy kịch tính. “Vậy thì, tôi sẽ tưởng tượng anh
đang bỡn cợt tôi khi chúng ta gặp nhau lần đầu, bên ngoài phòng
thi đấu, và đáp lại tôi sẽ tưởng tượng
mình bị chia thành
bốn mảnh. Four/Foer, anh hiểu chứ?[5] ít nhất đối với tôi, cái hình ảnh đó thú
vị hơn nhiều
so với một cái tên trong đầu và nó sẽ bám chặt trong
đầu.” Tôi chợt nghĩ, đây là
một dạng giác quan liên
đới tự tạo.
Để hiểu tại sao mẹo ghi nhớ này lại có tác dụng,
bạn cần biết một chút về một dạng lãng quên kỳ lạ mà các nhà tâm lý học gọi là
“Nan đề Baker/baker.” Nan đề như thế này: Một nhà nghiên cứu cho hai người xem cùng một bức ảnh khuôn mặt, và bảo với một trong hai
người rằng người trong ảnh là thợ làm bánh, còn nói với người kia rằng người
trong ảnh tên Baker[6]. Vài ngày sau, nhà nghiên cứu cho hai người đó xem cùng bức ảnh và hỏi
từ kèm theo. Người được nghe về công việc của người trong ảnh có nhiều khả năng nhớ đúng
hơn người được nghe tên người trong ảnh. Tại sao lại như vậy? Cùng một bức ảnh.
Cùng một từ. Việc ghi nhớ lại khác nhau.
Khi bạn nghe người trong
ảnh là thợ làm bánh, sự kiện đó được đưa vào mạng lưới các ý tưởng
về công việc
của người làm bánh: anh ta nướng
bánh, anh ta đội mũ trắng, khi xong
việc về nhà người anh ta có mùi thơm.
Ngược lại, cái tên Baker
chỉ bị buộc vào ký ức khuôn mặt một người. Mối liên hệ đó thật mỏng manh, và nếu nó phai mờ, thì cái tên sẽ lửng lơ
giữa mạng lưới ký ức bị mất không thể vãn hồi. (Khi một từ tưởng
như mắc trên đầu lưỡi, thì có thể là bởi chúng ta đang tiếp cận phần duy nhất của mạng lưới thần kinh “chứa” ý tưởng
đó, nhưng không
phải toàn bộ.) Nhưng khi nói về nghề nghiệp
người trong ảnh, có
nhiều sợi dây liên kết để tìm lại ký ức. Thậm
chí nếu bạn không nhớ rằng người
đó là thợ làm bánh, có lẽ bạn vẫn có cảm nhận
mơ hồ liên quan đến bánh mì,
hoặc thấy mối
liên hệ giữa khuôn mặt anh ta với cái mũ trắng, hay có lẽ bạn sẽ gợi lên trong đầu một ký ức về cửa
hàng bánh nơi bạn sống. Bất kỳ nốt nào trong mớ lộn xộn những liên hệ đó cũng có thể
giúp lần ra nghề nghiệp
của người kia.
Bí quyết thành
công trong phần
thi khuôn-mặt- tên-người - và cả nhớ tên người trong thế giới thực - chỉ đơn giản là chuyển Baker
thành thợ làm bánh - hay Foer thành số bốn (four). Hay Reagan thành súng bắn laze. Một mẹo
đơn giản, nhưng hiệu quả cao.
Tôi đã cố dùng kỹ thuật này để nhớ tên của nhà làm phim tài liệu đã đi cùng Ed và Lukas
quanh thành phố suốt cuối tuần. Anh ta tự giới thiệu
là Jonny Lowndes.
“Chúng tôi gọi cậu
ta là Pounds Lowndes,” Ed xen vào.
“Hồi trung học,
cậu ta đậm
người.” vi biệt
hiệu hồi nhỏ của anh trai
tôi là Jonny, tôi nhắm mắt và hình dung hai người họ cùng nhau, tay vòng tay,
đang ngấu nghiến
một pound (khoảng
nửa kg) bánh.
“Anh biết chúng
tôi có thể dạy anh nhiều mẹo
như vậy,” Ed nói. Anh ta quay sang Lukas, sôi nổi. “Tôi đang
cố hình dung
xem hết tối
nay mình có thể giúp
anh ta thắng
giải vô địch nước Mỹ không?”
“Tôi cảm giác anh hơi coi nhẹ người Mỹ đấy nhé,”
tôi nói.
“Ngược lại, chỉ là họ không tìm đúng huấn luyện
viên, thôi,” anh ta nói, quay về phía tôi. “Tôi cho là anh chỉ cần tập mỗi ngày
một tiếng là có thể thắng giải năm tới.” Anh ta nhìn Lukas. “Cậu có nghĩ thế
không?”
Lukas gật đầu.
“Anh nói y như Buzan,” tôi nói.
“À, đúng rồi Tony Buzan khả kính,” Ed đùa cọt. “Ông ta có thuyết phục anh cái thứ vớ vẩn
rằng bộ não là một khối cơ bắp không?”
“Ờ, có, ông ta có nói.”
“Bất kỳ ai hiểu biết sơ đẳng về đặc tính của bộ não và của cơ bắp đều mỉm cười trước
sự so sánh đó.” Đó là dấu hiệu đầu tiên cho thấy mối quan hệ không tốt đẹp của Ed với Buzan. “Này, điều anh thực sự cần là nhận tôi làm huấn luyện
viên cho anh, là người
đào tạo và quản
lý - và, một người
thầy trí óc.”
“Anh sẽ được gì từ mối quan
hệ này?” tôi hỏi.
“Tôi sẽ được niềm vui,” anh ta đáp, với một nụ cười. “Vả lại, anh là nhà báo, tôi sẽ không phiền nếu, trong quá trình viết về trải nghiệm này, anh tạo ấn tượng rằng tôi sẽ là một con người tuyệt vời để vào vai gia sư cho
tiểu thư ở Hampton với giá, ờ, cỡ một tỉ bảng một giờ.”
Tôi cười toáng
lên và bảo Ed rằng
tôi sẽ suy nghĩ về điều đó. Tôi thực sự không
hứng thú lắm chuyện
dành mỗi ngày
một tiếng vầy
vò mấy quân
bài, hay ghi
nhớ những trang
giấy đầy những chữ số, hay làm bất cứ trò thể dục trí óc nào dường như liên quan đến việc trở thành
một “vận động viên trí óc.” Tôi luôn chiều theo những
thói lập dị của mình - tôi là
đội trưởng đội thi đố (quiz bowl)
hồi trung học, và lâu nay vẫn đeo một chiếc đồng có chức năng máy tính - nhưng vụ này có phần thái
quá, thậm chí là với
tôi. Nhưng tôi cũng tò mò
muốn tìm hiểu xem đâu là giới hạn trí nhớ của mình, và khá bị Ed kích thích, nên cũng
muốn cân nhắc vụ tập luyện này. Tất cả vận động viên trí óc tôi đã gặp đều khăng
khăng rằng bất kỳ ai cũng có thể cải thiện
trí nhớ của mình - rằng sức mạnh chưa dùng tới của S có trong tất cả chúng
ta. Tôi quyết
định sẽ thử tìm xem điều đó có thực không. Đêm hôm
đó, khi về đến nhà,
trong hòm thư của tôi có một e-mail của Ed đang
chờ: “Thế nào rồi, tôi có
thể làm huấn luyện viên cho anh không?”